TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 132/2018/HSST NGÀY 09/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 09 tháng 10 năm 2018. tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2018/HSST ngày 19 tháng 9 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/QĐ-HSST ngày 28 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: TRẦN LÊ THANH T. Sinh ngày 13 tháng 02 năm 1991. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: 06 - Đ, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng. Chỗ ở: 72 - A, Phường 5, thành phố Đ, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Chế tác đá. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Trần Trọng Kim H, sinh năm 1952; Con bà: Lê Thị N, sinh năm 1956. Vợ: Vũ Lê Hồng C, sinh năm 1983, có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2012. Hiện ở tại: 72 - A, Phường 5, thành phố Đ, Lâm Đồng. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt ngày 21/6/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đồng, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Lê Thanh T là đối tượng sử dụng chất ma túy (Methamphetamine) từ năm 2016. Trong thời gian sử dụng ma túy, vào tối ngày 19/6/2018, T đến Bến xe Miền Đông tại Thành phố Hồ Chí Minh, gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) 03 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng rồi đem về thành phố Đ, Lâm Đồng, cất giấu trong nhà tại 72 - A, Phường 5, thành phố Đ, Lâm Đồng để sử dụng dần. Đến khoảng 15 giờ 30 ngày 21/6/2018, Trần Lê Thanh T lấy một trong ba gói ma túy đã mua ra và sử dụng hết, còn lại 02 gói, T giấu vào trong túi bên phải của chiếc quần Jean đang treo trong phòng ngủ. Khoảng 16 giờ 00 cùng ngày, Công an tỉnh Lâm Đồng tiến hành kiểm tra nơi ở của Trần Lê Thanh T tại số 72 - A, Phường 5, thành phố Đ, Lâm Đồng thì phát hiện và bắt quả tang T đang cất giấu 02 gói ma túy nói trên.
Tại Kết luận giám định số 1084/GĐ-PC54 ngày 23/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể đựng trong 02 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 0,2859 gam là Methamphetamine, Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Lê Thanh T không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với Kết luận của Cơ quan giám định nêu trên.
Tại Cáo trạng số 138/CT-VKS ngày 18/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố Trần Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Lê Thanh T khai nhận vào ngày 19/6/2018 bị cáo đã có hành vi mua số ma túy gồm 03 gói nilon nhỏ là Methamphetamine với giá 1.000.000 đồng của một đối tượng không rõ lai lịch, tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó tàng trữ với mục đích để sử dụng và đến chiều ngày 21/6/2018, sau khi bị cáo sử dụng hết 01 gói, còn lại 02 gói bị cáo đang tiếp tục tàng trữ trong nhà thì bị Công an tỉnh Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện bắt giữ và thu giữ số ma túy trên với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Trần Lê Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 0,2859 gam Methamphetamine, là chất ma túy để sử dụng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Lê Thanh T từ 24 đến 30 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật. Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.
Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Lê Thanh T: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo mua từ người khác và tàng trữ 0,2859 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Lê Thanh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 0,2859 gam Methamphetamine. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo có 02 tiền án về tội “Cướp giật tài sản” từ năm 2009, đã chấp hành xong hình phạt và bị cáo lúc phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên đã được đương nhiên xóa án tích. Vì vậy bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo qui định tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Về áp dụng hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được bị cáo có nguồn thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có: Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định; một bình dùng để sử dụng ma túy và 01 quần Jean đã cũ, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy. Một Chứng minh nhân dân là giấy tờ tùy thân của bị cáo và một điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] . Tuyên bố bị cáo Trần Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2]. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Lê Thanh T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2018.
[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
+ Tịch thu để tiêu hủy Hai phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định; 01 bình dùng để sử dụng ma túy và 01 quần Jean đã cũ.
+ Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Trần Lê Thanh T và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc (đã qua sử dụng và được niêm phong). (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ).
[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 132/2018/HSST ngày 09/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 132/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về