Bản án 13/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 13/01/2021 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HS ngày 18/01/2021 đối với bị cáo:

Đặng Vũ H, sinh năm 1985 tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT: Tổ 1, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ dân phố H, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Xuân Q và bà Đỗ Thị N; có vợ là Lê Thị Thanh L, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Ngày 22/10/2019, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2020, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/12/2003, Tòa án nhân dân thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội:“Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 31/01/2013 Chủ tịch UBND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết Đ đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng. Ngày 18/7/2016, Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính 3.500.000 đồng về hành vi:“Hủy hoại tài sản của người khác”;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/11/2020 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Anh Lương Văn H1, sinh năm 1989; Địa chỉ: Đội 9, thôn H, xã Tràng An, huyện B, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

2/ Ông Đặng Xuân Q, sinh năm 1950; Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

3/ Anh Vũ Minh T, sinh năm 1993; Địa chỉ: Tổ 13, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

4/ Anh Vũ Văn Đ, sinh năm 1991; Địa chỉ: Tổ 5, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

5/ Bà Đỗ Thị N, sinh năm 1953; Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng:

1/ Ông Ninh Văn G, sinh năm 1964. Vắng mặt.

2/ Ông Hoàng Văn Tr, sinh năm 1962. Vắng mặt.

3/ Ông Phạm Văn S, sinh năm 1958. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 15 phút ngày 16/11/2020 giữa Đặng Vũ H và ông Đặng Xuân Q, bà Vũ Thị N (bố mẹ đẻ của H) xảy ra cãi vã. H chửi bà N rồi cầm ca đựng nước bằng nhựa màu trắng ném trúng lưng bà N. Bà N đạp xe đến Công an phường Thanh Châu để trình báo vụ việc và đề nghị Công an phường Thanh Châu đến giải quyết. Sau khi bà N đi, H ở nhà đã ba lần dùng bật lửa châm nắp bình xăng xe mô tô nhãn hiệu Honda Sirius, màu đỏ, đen, BKS 90B1 – 814.09 của ông nhưng ông Q đều dùng khăn lau bàn dập được ngọn lửa. H lấy một con dao tháo ốc dây xăng gầm xe mô tô làm cho xăng trong xe chảy ra ngoài. H dùng bật lửa Đ đốt thì ông Q hắt xoong nước vào nên H không đốt được. H tiếp tục vào bếp lấy một chai nhựa thể tích 500ml bên trong đựng xăng mang ra đổ lên yên xe mô tô thì ông Q hắt nước lên yên xe nên H không làm gì được.

Sau khi nhận được trình báo của bà N, đồng chí Nguyễn Văn Hoàn – Phó trưởng Công an phường Thanh Châu phân công đồng chí trung úy Vũ Văn Đ và đồng chí trung úy Vũ Minh T là cán bộ Công an phường Thanh Châu xuống nhà bà N nắm tình hình và giải quyết vụ việc (đồng chí T mặc trang phục Công an nhân dân, đồng chí Đ mặc thường phục dân sự). Khi đến nơi, đồng chí T và đồng chí Đ nghe ông Q trình bày sự việc, hai đồng chí giới thiệu là cán bộ Công an phường Thanh Châu và yêu cầu H vào trong nhà để làm việc nhưng H không cho hai đồng chí vào nhà, chửi bới hai đồng chí. H lao vào túm cổ áo đồng chí T thì bị đồng chí Đ khống chế. H xin tự đi đến Công an phường thì đồng chí Đ bỏ H ra. H đi ra ngoài đường, nhặt viên đá xẻ quay lại đe dọa hai đồng chí thì đồng chí Đ giằng được viên đá ném đi. H nhặt con dao vừa dùng để tháo xăng xe mô tô ở dưới gầm xe mô tô BKS 90B1 – 814.09 đi đến chỗ hai đồng chí đang đứng, H dùng tay trái túm cổ áo đồng chí T, tay phải cầm dao kề sát cổ đồng chí T. Đồng chí T giữ tay H thì bị H vật ngã làm đổ xe mô tô BKS 90B1 – 814.09. Thấy vậy đồng chí Đ phối hợp cùng quần chúng nhân dân khống chế H, yêu cầu H bỏ dao ra thì H vứt con dao ra vỉa hè đường Đinh Tiên Hoàng. Hậu quả các đồng chí Công an bị cản trở thực thi nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự và an toàn tại khu dân cư đồng thời đánh đồng chí T bị xước da rớm máu ở vùng cổ, rách da rớm máu ngón tay út, áp út bàn tay phải.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án: 01 ca nhựa màu trắng thể tích 02 lít; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Sirius, màu đỏ đen, BKS 90B1 – 814.09; 01 đăng kí xe mô tô mang tên Lương Văn H1; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài 20 cm; 04 viên đá màu đen có chiều dài tổng thể là 22,5 cm.

Ngày 08/12/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý ra Quyết Đ số 127 trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam giám Đ mức độ tổn thương cơ thể của anh Vũ Minh T nhưng anh T từ chối việc giám Đ.

Bản cáo trạng số 17/CT-VKS-PL ngày 12/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Đặng Vũ H về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Đặng Vũ H, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Đặng Vũ H từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

- Đề xuất hướng xử lý vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc ca nhựa màu trắng, 01 con dao bằng kim loại ông Q, bà N từ chối nhận lại tài sản và 04 viên đá màu đen không còn giá trị sử dụng đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Đặng Vũ H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi chửi bới, xúc phạm, hành hung, cản trở người thi hành công vụ như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Đặng Xuân Q và bà Đỗ Thị N đều xác nhận sự việc và hành vi của bị cáo H đã thực hiện theo bản cáo trạng đã mô tả là hoàn toàn phù hợp. Về 01 chiếc ca nhựa màu trắng, con dao bằng kim loại màu đen là vật chứng của vụ án nhưng giá trị không đáng kể nên ông Q và bà N không nhận lại tài sản này và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết Đ tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tòa án xét xử vắng mặt và công bố lời khai là đúng pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Vũ H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa như biên bản phạm tội quả tang; biên bản khám nghiệm hiện trường; bản ảnh, sơ đồ hiện trường; báo cáo vụ việc, đơn đề nghị, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng, lý lịch tư pháp của bị cáo cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội để kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 16/11/2020, tại tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, Đặng Vũ H có hành vi chửi bới, đe dọa làm hư hỏng tài sản của bố mẹ đẻ là ông Đặng Xuân Q và bà Đỗ Thị N. Khi đồng chí Vũ Văn Đ và đồng chí Vũ Minh T là cán bộ Công an phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý được phân công đến giải quyết vụ việc nhằm ngăn chặn ngay hành vi sai trái của H, bảo vệ an toàn, an ninh trật tự và tài sản của nhân dân thì H chửi bới, thách thức và nem 04 viên đá xẻ đe dọa hai đồng chí; H dùng vũ lực (tay trái túm cổ áo đồng chí T, tay phải cầm dao kề sát cổ đồng chí T, vật ngã đồng chí T). Hậu quả: đồng chí T và đồng chí Đ không thực hiện được nhiệm vụ. Đng thời còn gây thương tích ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của đồng chí T. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam và luận tội tại phiên tòa đối với bị cáo là đúng người, đúng tội có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự;

có nhân thân xấu do đã từng bị kết án về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (đã được xóa án tích), từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi:“Hủy hoại tài sản của người khác” và đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc (đều đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) nay lại tiếp tục phạm tội thể hiện khó cải tạo bản thân.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm vì đã bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/5/2020 chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có thời gian tham gia phục vụ và hoàn thành nghĩa vụ trong quân đội từ tháng 02 năm 2006 đến tháng 01 năm 2008; có bố đẻ là bệnh binh; bố, mẹ đẻ đều là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ. Cụ thể trong vụ án, bị cáo đã có hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường của lực lượng công an nhân dân khi đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hành vi dùng lời lẽ xúc phạm, chửi bới sau đó hành hung cán bộ, chiến sỹ công an đang thi hành nhiệm vụ của bị cáo đã gây cản trở việc thi hành công vụ của lực lượng công an nhân dân, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Do hành vi của bị cáo là cố ý, thể hiện sự coi thường kỷ cương, luật pháp nên cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung trong cộng đồng.

[6] Đối với hành vi dùng tay trái túm cổ áo đồng chí T, tay phải cầm dao kề sát cổ đồng chí T làm đồng chí T bị xước da rớm máu ở vùng cổ, rách da rớm máu ngón tay út, áp út bàn tay phải nhưng đồng chí T từ chối giám định nên không xem xét xử lý H là phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do đồng chí T kng có đề nghị gì về bồi thường dân sự và tổn thất về mặt tinh thần nên trách nhiệm dân sự trong vụ án sẽ không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về vật chứng đã thu giữ: Đối với 01 chiếc ca nhựa màu trắng, 01 con dao bằng kim loại là tài sản của ông Q, bà N giá trị không đáng kể, ông bà từ chối nhận lại tài sản và đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật nên cần tịch thu tiêu hủy cùng với 04 viên đá xẻ là công cụ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Sirius, màu đỏ đen, BKS 90B1 – 814.09; 01 đăng kí xe mô tô mang tên Lương Văn H1 là tài sản của ông Đặng Xuân Q không liên quan đến phạm tội nên Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại chiếc xe cùng giấy tờ cho ông Q là phù hợp quy định pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 và Điều 50 Bộ luật Hình sự:

Căn cứ Điều 105, 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Đặng Vũ H phạm tội:“Chống người thi hành công vụ”.

- Xử phạt bị cáo 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 17/11/2020.

2. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 04 viên đá xẻ màu đen, 01 chiếc ca nhựa màu trắng, 01 con dao bằng kim loại (Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 18/01/2021).

3. Án phí: Buộc bị cáo Đặng Vũ H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về