Bản án 13/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2021/TLST- HS ngày 01 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2021 đối với:

Bị cáo Đoàn Văn Đ, sinh ngày 11/11/1994 tại huyện T, tỉnh B.

Nơi cư trú: Thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Q, sinh năm 1962 và bà Phạm Thị T (đã chết); có vợ là Lã Thị H1, sinh năm 1993; có 01 con sinh năm 2020. Tiền án, Tiền sự: không; nhân thân: Năm 2013 tham gia nghĩa vụ quân sự đến tháng 12/2014 xuất ngũ về địa phương. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/11/2020, đến ngày 02/12/2020 chuyển tạm giam đến nay. (có mặt).

- Người chứng kiến:

+ Ông Nguyễn Đình D, sinh năm 1956. (Vắng mặt)

+ Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1960. (Vắng mặt)

Đều cư trú tại: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện hút ma túy, nên khoảng 09 giờ 30 ngày 27/11/2020, Đoàn Văn Đ đi bộ từ nhà tại thôn H, xã B đến khu vực ngã ba thuộc thôn An Ninh, xã B bắt xe ôm đến chợ thuộc thôn V, xã D, huyện T, tỉnh B mua 100.000 đồng được 01 gói ma túy loại heroine của một người đàn ông, không biết tên, địa chỉ. Đ cất số ma túy vừa mua được cho vào túi áo phía trước bên phải áo khoác đang mặc rồi lại thuê xe ôm để đi về nhà. Khi đi đến ngã ba thuộc thôn A, xã B, Đ xuống xe ôm để đi bộ về nhà thì tổ công tác của công an huyện Thái Thụy làm nhiệm vụ tuần tra thấy Đ có biểu hiện nghi vấn nên đề nghị Đ dừng lại kiểm tra. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương, của ông Nguyễn Văn H2 và ông Nguyễn Đình D lực lượng công an tiến hành kiểm tra người Đ phát hiện tại túi áo phía trước bên phải áo khoác Đ đang mặc có 01 gói được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở ra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, Đ khai là ma túy loại hêrôine, Đ mua về để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đồng thời đưa Đ, mời những người chứng kiến về UBND xã Thụy Bình lập biên bản bắt người người phạm tội quả tang. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ nhưng không thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 418/KLGĐ-PC09 ngày 28/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng trong phong bì niêm phong mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1718 gam (Không phẩy một nghìn bảy trăm mười tám gam)”. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 10/CT-VKSTT ngày 01/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Đoàn Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trong bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Đoàn Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí.

Bị cáo không tranh luận đối với đề nghị của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy lập ngày 27/11/2020 (Bút lục số 45-49); lời khai của những người chứng kiến là ông Nguyễn Đình D và ông Nguyễn Văn H1 (bút lục số 69-76); bản kết luận giám định số 418/KLGĐ-PC09 ngày 28/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số: 55). Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, phù hợp với các chứng cứ nêu trên. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 10 giờ 30 ngày 27/11/2020, tại trục đường thôn A, xã B, huyện T, tỉnh B bị cáo Đoàn Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1718 gam ma túy, loại Heroine với mục đích về sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an huyện Thái Thụy bắt quả tang. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Đoàn Văn Đ đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy - Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” [3] Đánh giá tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo Đ là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến an ninh, trật tự công cộng và an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã qua môi trường rèn luyện trong quân đội, biết được tác hại rất lớn của ma túy, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp mua về và cất giữ trong người để sử dụng cho bản thân thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, có như vậy mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo nói riêng cũng như răn đe, đấu tranh và phòng ngừa tội phạm nói chúng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, trước khi bị bắt, bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định và không có tài sản riêng.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 27/11/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1374 gam Heroine thu giữ của bị cáo Đoàn Văn Đ hoàn trả sau giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 418/KLGĐ. (Vật chứng trên đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/02/2021)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Đoàn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đoàn Văn Đ có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 26/02/2021. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về