Bản án 13/2021/HSST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 13/2021/HSST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 175/2020/TLST - HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Võ Chí T, sinh năm 1988 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Ph, thành phố P , tỉnh Ninh Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Con ông Võ Văn C, sinh năm 1961 và bà Phạm Thị H (đã chết). Có vợ Trần Thị Ngọc Th, sinh năm 2000 và 01 con.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 24/3/2006, bị Công an phường Ph xử phạt 150.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Đã nộp phạt ngày 24/3/2006.

- Ngày 03/8/2015, bị Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm khởi tố bị can về tội Cố ý gây thương tích. Ngày 15/10/2015, Viện kiểm sát nhân dân T phố Phan Rang - Tháp Chàm ra quyết định đình chỉ vụ án đối với T (do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố).

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt)

2. Phạm Duy H, sinh năm 1999 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Làm bếp; Trình độ văn hoá: 8/12; Con ông Phạm Duy T, sinh năm 1970 và bà Khúc Thị Kim C, sinh năm 1977. Chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt)

3. Nguyễn Thái S, sinh năm 1984 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 1, phường TS, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Kinh doanh dịch vụ cầm đồ; Trình độ văn hoá: 11/12; Con ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1957 và bà Thái Thị X, sinh năm 1958. Có vợ Châu Thị Hồng H, sinh năm 1990 và có 02 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 27/11/2008, bị Công an phường Kinh Dinh xử phạt 350.000 đồng về hành vi đánh nhau. Đã nộp phạt ngày 28/11/2008.

- Ngày 27/8/2018, bị Công an phường Thanh Sơn xử phạt 200.000 đồng về hành vi Gây mất trật tự khu dân cư. Đã nộp phạt ngày 27/8/2018.

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt).

4. Đặng Tuấn D, sinh năm 1989 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 8, phường PM, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Cắt tóc; Trình độ văn hoá: 10/12; Con ông Đặng Văn R, sinh năm 1961 và bà Trần Thị B, sinh năm 1962. Có vợ Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1988 và có 02 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt).

5. Lâm Thanh T1, sinh năm 1991 tại Ninh Thuận.

Hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã D, huyện TN, tỉnh Ninh Thuận. Chỗ ở hiện nay: Khu phố 6, phường TS, T phố P, tỉnh Ninh Thuận; Giới tính: Nữ; Dân tộc:

Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Thợ uốn tóc; Trình độ văn hoá: 8/12; Con ông Lâm Xuân H (đã chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1956. Có chồng Trần Thế P, sinh năm 1984 (đã ly hôn) và có 01 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt).

6. Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1988 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Thôn LC, xã H, huyện NH, tỉnh Ninh Thuận; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Y sĩ nha khoa; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1959 và bà Phan Thị Mộng Th, sinh năm 1958. Có chồng Đặng Tuấn D, sinh năm 1989.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt).

Người làm chứng: Bà Huỳnh Thị Th, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Khu phố 4, phường MH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 00 giờ 10 phút ngày 05/10/2020, Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm phối hợp với Công an phường Mỹ Hải tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng 203, nhà nghỉ Hương Lan thuộc khu phố 4, phường Mỹ Hải, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm. Thu giữ 01 viên nén màu vàng xanh in hình mặt con khỉ, trên có in chữ “No” “See” kích thước (1 x 0,9 x 0,3)cm, 1/2 viên nén màu vàng xanh in hình mặt con khỉ, trên có in chữ “No” kích thước (1 x 0,6 x 0,3)cm (ký hiệu M1); 02 bịch nylon màu trắng được hàn kín ba đầu, miệng khép dính, trên có đường kẻ màu xanh, kích thước (3,1 x 3,1)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2); 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (cuộn tròn thành ống hình tròn đút vào hai vỏ điếu thuốc lá hiệu 555); 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng; 01 quẹt ga, hiệu Iphone XR; 01 đèn chiếu nhấp nháy màu đen hiệu MP; 01 loa màu đen hiệu JBL hình trụ cao 46cm. Ngoài ra còn tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh đen, 01 điện thoại di dộng Nokia màu đen của T; Số tiền 1.560.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 xe mô tô hiệu Vemvipi, màu đen bạc, biển số 85S2 – 0400 của H; Số tiền 6.600.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone Pro Max, màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh đen của S; 01 ví da màu vàng, bên trong có 1.100.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen của D; 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, màu đen trắng của T1; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen của H1.

Quá trình điều tra xác định, khoảng 22 giờ 15 phút ngày 04/10/2020, khi đang nhậu ở quán Hoàng Sơn thuộc phường Mỹ Bình, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Võ Chí T rủ Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 cùng nhau góp tiền mua ma túy để sử dụng thì tất cả đồng ý. Lúc này, T điều khiển xe mô tô hiệu Vemvipi, màu đen bạc, biển số 85S2 – 0400 chạy đến bên hông Club 101 thuộc phường Thanh Sơn gặp một người tên Sáng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) mua 04 bịch ma túy khay (Ketamin) và 02 viên ma túy (thuốc lắc) với số tiền 4.600.000 đồng, rồi quay về tiếp tục nhậu. Sau đó, cả nhóm thống nhất thuê nhà nghỉ Hương Lan để cùng nhau sử dụng ma túy. Lúc này, H điều khiển xe mô tô chạy về nhà lấy 01 đèn chiếu nhấp nháy màu đen hiệu MP, kích thước (23 x 16 x 9,5) cm; 01 loa màu đen hiệu JBL hình trụ cao 46 cm chạy đến nhà nghỉ Hương Lan, thuê phòng 203 rồi điện thoại cho T biết. T, H1, S, T1, D thuê taxi cùng nhau đến nhà nghỉ.

Tại đây, T lấy 03 bịch và 02 viên ma túy ra để tất cả cùng sử dụng, đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 05/10/2020 thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang như đã nêu trên. Tại Cơ quan điều tra, Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại Kết luận giám định số: 168/KLGĐ-PC09 ngày 08/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, kết luận:

- 01 viên nén màu vàng xanh in hình mặt con khỉ, trên có in chữ “No” “See” kích thước (1 x 0,9 x 0,3)cm; 1/2 viên nén màu vàng xanh in hình mặt con khỉ, trên có in chữ “No” kích thước (1 x 0,6 x 0,3)cm (ký hiệu M1) là chất ma túy, loại MDMA, có khối lượng: 0,6319 gam.

- Chất tinh thể màu trắng bên trong 02 bịch nylon màu trắng được hàn kín ba đầu, miệng khép dính, trên có đường kẻ màu xanh, kích thước (3,1 x 3,1)cm (ký hiệu M2) là chất ma túy, loại Ketamine, có khối lượng: 0,4293 gam. Hoàn lại đối tượng sau giám định: M1 là 0,3458 gam ma túy, loại MDMA; M2 là 0,3492 gam ma túy, loại Ketamin, cùng bao gói gửi đến giám định.

Cáo trạng số 01/CT-VKSPRTC ngày 11 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân T phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Võ Chí T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; Xử phạt bị cáo Phạm Duy H và Nguyễn Thái S từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 túi niêm phong mã số PS3 030167, bên trên có chữ ký và họ tên của Nguyễn Văn C, Lê Ngọc Th, Huỳnh Ngọc T. Bên trong gói niêm phong có chứa 0,3458 gam ma túy, loại MDMA và 0,3492 gam ma túy, loại Ketamin; 02 bịch nylon màu trắng đã hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo trên có đường kẻ màu xanh, kích thước (3,1x3,1)cm (bao gói gửi đến giám định) là mẫu vật còn lại sau giám định chất ma túy. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (cuộn tròn thành ống hình tròn đút vào hai vỏ điếu thuốc lá hiệu 555); 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng; 01 quẹt ga, hiệu Iphone XR, kích thước (8x2,4)cm; 01 đèn chiếu nhấp nháy màu đen hiệu MP, kích thước (23x16x9,5)cm; 01 loa màu đen hiệu JBL hình trụ cao 46cm là số tiền, công cụ phạm tội.

Các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 không có ý kiến tranh luận.

Các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng. Xét thấy, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và đã có lời khai trong quá trình điều tra vụ án; nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng Hình sự xét xử vắng mặt bà Huỳnh Thị Th.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 05/10/2020, tại phòng 203 nhà nghỉ Hương Lan thuộc khu phố 4, phường Mỹ Hải, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,6319 gam ma túy, loại MDMA và 0,4293 gam ma túy, loại Ketamine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ. Vì vậy, Cáo trạng số 01/QĐ-VKSPR ngày 11/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm đã truy tố các bị cáo T, H, S, D, T1, H1 về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Đây là vụ án đồng phạm “tàng trữ trái phép chất ma túy” do các bị cáo cùng thực hiện. Ketamine và MDMA là các chất được liệt kê tại bảng danh mục các chất ma túy ban hành kèm theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ, bị cấm sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển dưới mọi hình thức. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, cần phải xử lý nghiêm. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là bị pháp luật cấm, thấy được tác hại của ma túy ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân và cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm khác nhưng vì nhu cầu cho cá nhân nên các bị cáo mua về tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

cáo:

[5] Xét tính chất, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vai trò của các bị Đối với Võ Chí T: Trong vụ án này, bị cáo là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác sử dụng ma túy, bị cáo đã trực tiếp mua ma túy từ người tên “Sáng” (không rõ nhân thân, lai lịch) hai chất ma túy loại MDMA và Ketamine mang về để cùng các bị cáo khác sử dụng chung. Bị cáo đã lấy tiền của mình ứng trước mua ma túy, sau đó các bị cáo khác sẽ góp tiền trả lại cho bị cáo. Sau khi mua ma túy quay trở lại quán nhậu Hoàng Sơn, bị cáo T nói H về nhà lấy loa, đèn chiếu sáng và đi tìm phòng nhà nghỉ để mọi người cùng nhau sử dụng ma túy. Như vậy, bị cáo T là người giữ vai trò chính, vừa là người chủ mưu vừa là người thực hành nên Hội đồng xét xử nhận thấy mức án của bị cáo T phải cao hơn mức án đối với các bị cáo khác. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Đối với Phạm Duy H: Với vai trò là người giúp sức, bị cáo đã thống nhất ý kiến với bị cáo T mua ma túy về sử dụng chung. Khi được bị cáo T yêu cầu lấy công cụ để phục vụ cho việc sử dụng ma túy, bị cáo đã về nhà lấy 01 loa, 01 đèn chiếu nhấp nháy mà cách đây 05 tháng T, S, H, D góp tiền mua chung và đi thuê phòng nhà nghỉ để cả nhóm sử dụng ma túy. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1: Bản thân các bị cáo là những đối tượng nghiện ma túy nên khi được bị cáo T rủ rê sử dụng ma túy, các bị cáo đã tiếp nhận ý chí và thống nhất cùng tham gia góp tiền để mua ma túy về sử dụng chung. Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự; riêng bị cáo S có nhân thân xấu. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Đối với người thanh niên tên Sáng (chưa rõ nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho bị cáo T. Quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch cụ thể nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào đủ căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với Huỳnh Thị Th (sinh năm 1976, trú tại Khu phố 4, phường MH) là chủ nhà nghỉ Hương Lan, không biết việc Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 đem ma túy vào nhà nghỉ để thuê phòng tàng trữ, sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý là có cơ sở.

[4] Về xử lý vật chứng:

Quá tình điều tra, Cơ quan điều tra tạm giữ và trao trả lại cho Võ Chí T 01 điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh đen, 01 điện thoại di dộng Nokia màu đen. Trả lại cho Phạm Duy H số tiền 1.560.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen. Trả lại cho Nguyễn Thái S số tiền 6.600.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone Pro Max, màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh đen. Trả lại cho Đặng Tuấn D 01 ví da màu vàng, bên trong có 1.100.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen. Trả lại cho Lâm Thanh T1 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, màu đen trắng. Trả lại cho Nguyễn Thị Thu H1 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen. Đây là những tài sản không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Vemvipi, màu đen bạc, biển số 85S2 – 0400 là tài sản của bà Khúc Thị Kim C (sinh năm 1977, trú tại khu phố 3, phường M, là mẹ của Phạm Duy H). Khi H mượn xe, bà C không biết H sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe trên cho bà C là có căn cứ.

Tịch thu tiêu hủy: 01 túi niêm phong hoàn lại bao gói gửi tới giám định, mã số PS3A, ký hiệu PS3-030167, trên túi niêm phong có chữ ký, ghi tên xác nhận của các bên liên quan; Nguyễn Văn C, Lê Ngọc Th, Huỳnh Ngọc T. Bên trong túi niêm phong có chứa 0,3458 gam ma túy loại MDMA và 0,3492 gam ma túy loại Ketamine cùng với tất cả bao gói gửi đến giám định; 02 bịch nylon màu trắng đã hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo trên có đường kẻ màu xanh, kích thước (3,1 x 3,1) cm là mẫu vật còn lại sau giám định.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (cuộn tròn thành ống hình tròn đút vào hai vỏ điếu thuốc lá hiệu 555); 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng; 01 quẹt ga, hiệu Iphone XR; 01 đèn chiếu nhấp nháy màu đen hiệu MP; 01 loa màu đen hiệu JBL hình trụ cao 46cm là số tiền, công cụ được sử dụng vào việc phạm tội.

[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát về việc định tội và định khung hình phạt đối với các bị cáo, xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo và đề nghị mức án là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, quan điểm xử lý vật chứng là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

2. Tuyên bố các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Võ Chí T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/10/2020.

Xử phạt bị cáo Phạm Duy H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/10/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái S 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/10/2020.

Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/10/2020.

Xử phạt bị cáo Lâm Thanh T1 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/10/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H1 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/10/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 túi niêm phong hoàn lại bao gói gửi tới giám định, mã số PS3A, ký hiệu PS3-030167, trên túi niêm phong có chữ ký, ghi tên xác nhận của các bên liên quan; Nguyễn Văn C, Lê Ngọc Th, Huỳnh Ngọc T. Bên trong túi niêm phong có chứa 0,3458 gam ma túy loại MDMA và 0,3492 gam ma túy loại Ketamine cùng với tất cả bao gói gửi đến giám định; 02 bịch nylon màu trắng đã hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo trên có đường kẻ màu xanh, kích thước (3,1 x 3,1) cm .

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, loại tiền polime được cuộn thành ống hình tròn đút vào hai vỏ điếu thuốc lá hiệu 555; 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng; 01 hộp quẹt ga, hiệu Iphone XR, kích thước (8x2,4)cm; 01 đèn chiếu nhấp nháy màu đen hiệu MP, kích thước (23x16x9,5)cm đã qua sử dụng; 01 loa màu đen hiệu JBL hình trụ cao 46cm, đường kính nơi rộng nhất là 21cm đã qua sử dụng.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang được quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/12/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Võ Chí T, Phạm Duy H, Nguyễn Thái S, Đặng Tuấn D, Lâm Thanh T1, Nguyễn Thị Thu H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HSST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về