Bản án 13/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI 

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở TAND thành phố Biên Hoà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 706/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 756/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh T, sinh năm 1999, tại tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 39/163, khu phố X3, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Nơi tạm trú : Số 11A, tổ X1, khu phố Y, phường B2, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Tr1 (chết); Con bà: Nguyễn Thị S, sinh năm 1972; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị can là con thứ ba và chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/8/2020 đến ngày 31/8/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 1101 ngày 31/8/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Minh T là người sử dụng trái phép chất ma tuý (ma tuý tổng hợp). Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 22/8/2020, T điều khiển xe mô tô biển số 60L1 – 8131 đến khu vực công viên B1, thuộc phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua của người thanh niên tên T1 (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 (Một) gói ma tuý tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng). Sau khi mua, T lấy một phần ma tuý ra để sử dụng cùng T1, phần còn lại T cất giấu để sử dụng dần.

Vào lúc 22 giờ 45 phút cùng ngày, T cất giấu gói ma tuý nêu trên trong túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô biển số 60 L1-8131 đi đến đường Huỳnh Văn N thuộc khu phố X, phường B2, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường B2 phát hiện bắt quả tang, chuyển giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà xử lý.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (Một) gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng - 01 (Một) xe mô tô biển số 60 L1 – 8131 số máy 1P50FMG – 310684926 số khung LZ8WCPLL1Y6085691. Quá trình điều tra xác định xe thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị S (mẹ của T), bà S không biết T sử dụng xe vào việc phạm tôi nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà S.

Tại kết luận giám định số 2014/PC54-GĐMT ngày 28/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận như sau:

Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng 0,1249 gam loại: Methamphetamine Tại Cáo trạng số 713/CT-VKSBH ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà tại phiên tòa:

Về quan điểm truy tố, tội danh, hình phạt đối với bị cáo:

1. Về quan điểm truy tố, tội danh:

- Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Về hình phạt:

- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Không - Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt chưa tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T với mức án từ 14 tháng – 18 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo như: bị cáo đã nhận Kết luận điều tra, Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 22/8/2020 tại đường Huỳnh Văn N thuộc khu phố X, phường B2, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Minh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1249 gam ma tuý tổng hợp (Methamphetamine) thì bị công an phường B2 phát hiện quả tang.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

[5] Đối với đối tượng tên T1 (chưa rõ lai lịch) có hành vi mua bán ma túy cho Nguyễn Minh T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 14 (mười bốn) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/8/2020 đến ngày 30/8/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 2014 ngày 28/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Biên Hòa.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về