Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 703/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 283/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 215/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Nhân Q, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn 9, xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị N là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Vũ Nhân Q trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 29 tháng 7 năm 2015. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh Q tại thôn 9, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách và lối sống của vợ chồng không hòa hợp, anh Q không quan tâm chăm sóc vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi mắng lẫn nhau. Chị N đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở nhiều lần, nhưng sau đó được hai bên gia đình động viên, anh Q hứa sửa chữa thay đổi nên chị lại về đoàn tụ cùng anh Q. Đến tháng 9 năm 2020, mâu thuẫn giữa chị N và anh Q trở nên trầm trọng, do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, trong làm ăn kinh tế và xảy ra xô xát, xúc phạm nhau nặng nề. Chị N về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Vũ Nhân Q. Chị N và anh Q có 01 con chung tên Vũ Nhân Tiến Đ sinh ngày 30 tháng 10 năm 2016. Khi ly hôn, chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Chị và anh Q tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh Q không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Anh Vũ Nhân Q là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng, song đến ngày mở phiên tòa, anh Q vẫn không có ý kiến về việc chị Nguyễn Thị N xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Vũ Nhân Q; đề nghị giao con Vũ Nhân Tiến Đ cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng Bị đơn là anh Vũ Nhân Q đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Nguyễn Thị N ly hôn với anh Vũ Nhân Q Chị N và anh Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị N và anh Q là hợp pháp. Tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã M và tại gia đình anh Q thể hiện, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do lối sống và tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt và trong kinh tế. Vợ chồng thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không chia sẻ và thông cảm cho nhau nên thường xuyên xảy ra cãi mắng xúc phạm. Thực tế, chị N cũng đã nhiều lần về nhà bố mẹ đẻ, song vì được sự động viên của hai bên gia đình nên trở về đoàn tụ cùng với anh Q. Đến tháng 9 năm 2020 chị N và anh Q tiếp tục phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, chị N và anh Q đã sống ly thân nhau từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay. Gia đình và bạn bè đã động viên hòa giải nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Thực tế cho thấy, hôn nhân hạnh phúc phải từ cả hai phía, vợ chồng có nghĩa vụ và quyền được yêu thương, chăm sóc, tôn trọng và sống chung cùng với nhau. Tại các buổi làm việc và tại phiên tòa, chị N vẫn quyết định đề nghị được ly hôn với anh Q. Anh Q nhận được các văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt, biết việc chị N xin ly hôn nhưng anh đều vắng mặt tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa, điều này cho thấy anh Q không thực sự mong muốn hàn gắn quan hệ vợ chồng. Từ những chứng cứ nêu trên đã thể hiện mâu thuẫn giữa chị N và anh Q lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N xin ly hôn anh Q.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị N và anh Q có 01 con chung tên Vũ Nhân Tiến Đ, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2016. Khi ly hôn, chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, chị N có công việc đảm bảo thu nhập ổn định để nuôi con. Mặt khác, anh Q không có lời khai thể hiện quan điểm về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của chị N, của anh Q, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi con tên Vũ Nhân Tiến Đ là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh Q không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không xem xét về cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Nguyễn Thị N khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của anh Vũ Nhân Q về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, - Cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Vũ Nhân Q.

- Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Nhân Tiến Đ, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2016 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002340 ngày 12/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí.

- Chị Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Vũ Nhân Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về