TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 265/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST - HNGĐ, ngày 06/5/2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1986 - Địa chỉ: Thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương (Có mặt)
Bị đơn: Chị Tô Thị Thanh T, sinh năm 1988 - Địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện; các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn M trình bày: Tại Bản án số 31/2018/HNGĐ -ST, ngày 13/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện đã giải quyết cho chị T ly hôn anh M, về con chung Tòa án giao cho chị T nuôi dưỡng con Nguyễn Mạnh Q, sinh ngày 23/12/2012, tại thời điểm giải quyết ly hôn hai bên có thiết lập “Bản cam kết về việc nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn”, có nội dung thỏa thuận là “…Nếu chị T kết hôn với người khác thì anh M sẽ đón con Nguyễn Mạnh Q về nuôi dưỡng…”. Nay chị T đã kết hôn với người khác và có một con chung với người chồng mới, để thực hiện đúng cam kết giữa hai bên, cũng như đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, anh đề nghị Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cho anh được nuôi dưỡng con Nguyễn Mạnh Q, sinh ngày 23/12/2012, anh không đề nghị chị T cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay anh chưa kết hôn với ai, đang làm công nhân gần nhà, tại Công ty TNHH LEOTECH VIỆT NAM, thu nhập ổn định, có sức khỏe, chỗ ở và các điều kiện khác đảm bảo để nuôi con tốt nhất.
Lời khai của chị Tô Thị Thanh T trình bày: Chị xác nhận lời trình bày của anh M về thời gian vợ chồng kết hôn, ly hôn, kết quả Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện giải quyết ly hôn và có thỏa thuận, cam kết về việc nuôi con của vợ chồng là đúng. Tuy nhiên chị không nhất trí thay đổi nuôi con vì chị đã nhờ mẹ đẻ trực tiếp chăm sóc con chung, mặc dù chị đã lấy chồng và có một con chung với người chồng mới nhưng gia đình nhà chồng chị ở cùng thôn, xã, gần nhà mẹ đẻ, có điều kiện thường xuyên qua lại để chăm sóc con một cách tốt nhất, chị vẫn xin được nuôi con và chỉ đồng ý giao con cho anh M nuôi con kể từ khi con Nguyễn Mạnh Q học hết cấp I.
Lời khai của cháu Nguyễn Mạnh Q trình bày: Hiện nay cháu đang sống cùng với bà ngoại tại thôn L, xã K, huyện Ninh Giang. Mẹ cháu sau khi ly hôn với bố cháu thì đã lấy chồng mới cùng thôn, gần nhà bà ngoại cháu, cho nên lúc cháu ở với bà, lúc thì sang ở với mẹ, được bà ngoại và mẹ chăm sóc, đảm bảo cuộc sống ăn ở, học tập. Hiện nay bố mẹ cháu rất yêu quý cháu, do vậy cháu muốn ở cùng với cả bố và mẹ, tuy nhiên bố mẹ cháu đã ly hôn sống mỗi người một nơi nên nguyện vọng của cháu không thực hiện được. Nếu Tòa án xử cho bố hoặc cho mẹ cháu trực tiếp nuôi dưỡng cháu thì cháu đều nhất trí. Cháu ở cùng bố cũng được và ở cùng mẹ cũng được.
Lời khai của bà Tô Thị N, là mẹ đẻ chị T trình bày: Sau khi chị T và anh M ly hôn, chị T được Tòa án giao cho nuôi con Nguyễn Mạnh Q, tháng 4/2020 chị T lấy chồng mới cùng thôn, xã với gia đình bà, con chung của chị T, anh M do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, do lấy chồng mới gần nhà nên chị T cũng thường xuyên qua lại để chăm sóc cháu Q, do vậy cháu Q hiện được chăm sóc, và có cuộc sống ổn định, đầy đủ. Hiện nay chị T đã có một con chung với người chồng mới, nghề nghiệp làm công nhân nhưng do con còn nhỏ nên chị T chưa đi làm được. Bà xác định chỉ giúp đỡ nuôi con giúp cho chị T và anh M trong một thời gian nhất định chứ không thể lâu dài do bà tuổi cao, sức yếu, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu khởi kiện của anh M theo quy định của pháp luật.
Đại diện VKSND huyện Ninh Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã đảm bảo đúng các thủ tục tố tụng, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng, về chứng cứ trong hồ sơ đã được thu thập đầy đủ, đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan. Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 147, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị: Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn M về việc đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Giao con Nguyễn Mạnh Q, sinh ngày 23/12/2012 cho anh Nguyễn Văn M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh M không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Về án phí: Anh Nguyễn Văn M tự nguyện nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Bị đơn, chị Tô Thị Thanh T đã trình bày lời khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án nhưng cố tình vắng mặt tại phiên tòa. Do vậy, HĐXX xét xử vắng mặt bị đơn chị Tô Thị Thanh T theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, HĐXX thấy rằng: Tại Bản án số 31/2018/HNGĐ -ST, ngày 13/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương đã giải quyết cho chị Tô Thị Thanh Ty được ly hôn anh Nguyễn Văn M, chị T được nuôi con Nguyễn Mạnh Q, sinh ngày 23/12/2012. Sau khi ly hôn đến nay, anh M chưa kết hôn với ai và đang sống cùng với bố mẹ đẻ, làm công nhân gần nhà, có thu nhập trung bình khoảng 8.000.000 đồng/tháng, ngoài điều kiện nêu trên thì bố mẹ đẻ anh M cũng có văn bản cam kết giúp đỡ anh M về chỗ ở cũng như các điều kiện chăm sóc khác để đảm bảo cho việc nuôi con một cách tốt nhất. Bản thân con Nguyễn Mạnh Q nhất trí ở cùng bố hoặc ở cùng với mẹ tùy thuộc vào quyết định của Tòa án. Về phía chị T có nguyện vọng muốn được nuôi dưỡng con cho đến khi học hết cấp I rồi chị mới giao cho anh M nuôi con, tuy nhiên hiện nay chị T đã kết hôn và đang nuôi con nhỏ với người chồng mới, chưa thể đi làm, không có thu nhập ổn định, con Nguyễn Mạnh Q chị T đang phải nhờ mẹ đẻ nuôi dưỡng. Như vậy, xét về mọi mặt thì điều kiện nuôi con của anh M tốt hơn chị Tnên yêu cầu khởi kiện của anh M được chấp nhận, giao con Nguyễn Mạnh Q hiện đang do chị T trực tiếp nuôi dưỡng sang cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, điều này cũng phù hợp với bản cam kết của chị T, anh M, nội dung là “…Nếu chị T kết hôn với người khác thì anh M sẽ đón con Nguyễn Mạnh Q về nuôi dưỡng …”. Chấp nhận sự tự nguyện của anh M không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Tô Thị Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
[3] Về án phí: Anh Nguyễn Văn M tự nguyện chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Xét sự tự nguyện của anh M phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 28, Điều 147, 227, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn M về việc đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Giao cho anh Nguyễn Văn M được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Nguyễn Mạnh Q, sinh ngày 23/12/2012 cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Văn M không yêu cầu chị Tô Thị Thanh T cấp dưỡng nuôi con. Chị Tô Thị Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Văn M tự nguyện nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009400, ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Anh Nguyễn Văn M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, chị Tô Thị Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 02/06/2021 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 13/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về