Bản án 13/2019/HSST ngày 28/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 13/2019/HSST NGÀY 28/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 01 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 213/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Công A, tên gọi khác: O; giới tính: nam. Sinh năm: 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 20 Q, phường H, quận T. Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Phật. Trình độ văn hóa: 03/12, nghề nghiệp: không. Con ông Lê Công Đ, sinh năm 1973 và bà Lê Thị N, sinh năm 1972; chưa có vợ con. Lịch sử bản thân: Ngày 10/11/2009, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 274). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30/8/2010, qua xác minh bị cáo đã thi hành xong phần án phí. Tiền án: Ngày 21/5/2015, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 159). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 05/12/2015. Qua xác minh bị cáo chưa thi hành phần án phí dân sự. Tiền sự: Ngày 19/6/2017, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 21 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tạm giam từ ngày: 25/6/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Minh B, tên gọi khác: R, giới tính: nam. Sinh năm 1994 tại An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 20/10 Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang. Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Phật. Trình độ văn hóa: 08/12, nghề nghiệp: buôn bán. Con ông Nguyễn Hữu R1 (chết) và bà Trần Thị Bé Y, sinh năm 1961; chưa có vợ con. Lịch sử bản thân: Ngày 01/4/2011, Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 13/01/2015, Tòa án nhân dân Quận 2 ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 12/9/2017, Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 1 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 80). Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2017. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 15/8/2018. Do bị cáo phạm tội vào ngày 14/4/2017 nên không tính là tiền án. Tiền án, tiền sự: không. Tạm giam từ ngày: 15/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Thạch Tuấn C, tên gọi khác: U, giới tính: nam. Sinh năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 3/26 Y, phường C, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: không. Trình độ văn hóa: 08/12, nghề nghiệp: không. Con ông Nguyễn Xuân B2 và bà Thạch Thị Vân J. Vợ: Hồ Tiểu M, sinh năm: 1990; có 03 con, lớn nhất sinh năm: 2009, nhỏ nhất sinh năm: 2017. Lịch sử bản thân: Ngày 12/02/2015, Tòa án nhân dân Quận 1 ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tiền án: Ngày 27/9/2017, Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 93). Do bị cáo phạm tội vào ngày 28/01/2017, sau đó bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xét xử. Ngày 22/3/2018 Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 8 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 2 năm 6 tháng tù tại bản án số 93/2017/HSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân Quận 4, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10 năm 6 tháng tù (Bản án số 57). Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2017. Do bị cáo phạm tội vào ngày 20/5/2017 nên không tính là tiền án. Tiền sự: không. Ngày 23/10/2017, Viện kiểm sát ra lệnh tạm giam truy tố. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Lê Ngọc D, giới tính: nam. Sinh năm 1988 tại Long An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 50/2/3 V, ấp C, Thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An. Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: không. Trình độ văn hóa: 08/12, nghề nghiệp: không. Con ông Lê Tấn Đ1, sinh năm 1963 và bà Võ Kim A1, sinh năm 1963. Vợ: Nguyễn Thị Bích L, sinh năm: 1990; có 01 con sinh năm: 2014. Tiền án: Ngày 23/3/2015 Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản (Bản án số 75). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 05/6/2016. Qua xác minh bị cáo chưa thi hành phần dân sự. Ngày 12/9/2017, Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 1 năm 6 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản (Bản án số 80). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 15/10/2018. Do bị cáo phạm tội vào ngày 14/4/2017 nên không tính là tiền án. Tiền sự: không. Tạm giam: 15/10/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1/ Ông Nguyễn Duy B1 (vắng mặt) – Địa chỉ: 05 Ngyễn Huy Tự, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

2/ Bà Trương Nguyễn Uyên E (vắng mặt) – Địa chỉ: 15/19 C Hoa Thám, Phường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh

3/ Ông Nguyễn Trường F (vắng mặt) – Địa chỉ: 371/40/1G Trường Chinh, Phường 14, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh

4/ Ông Nguyễn Hiếu G (vắng mặt) – Địa chỉ: tổ 23 khu Cầu Xéo, Thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai

5/ Ông Nguyễn Phúc H (vắng mặt) – Địa chỉ: 373 đường số 3, thôn Trung A, xã Suối Nghệ, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

6/ Ông Nguyễn Đình Đức I (vắng mặt) – Địa chỉ: 378 Chung cư Lê Thành, đường An Dương Vương, phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh

7/ Bà Hồ Thị Minh K (vắng mặt) – Địa chỉ: 125/21 Nguyễn Văn Thương, Phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh

8/ Ông Nguyễn Hữu Bảo L (vắng mặt) – Địa chỉ: Thôn Kênh Đào, xã An Mỹ, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Hồ Tiểu M (có mặt) – Địa chỉ: 86/12/4B Phan Văn Hân, Phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ 1: Vào khoảng 05 giờ ngày 30/3/2017, tại nhà trọ cho thuê số 210 Q, Phường X, quận Y, ông Nguyễn Thành T phát hiện cửa cuốn nhà trọ bị kéo lên nên ông T tri hô cho những người cùng thuê kiểm tra, thì phát hiện bị mất trộm 04 chiếc xe môtô gồm: 01 xe Honda Wave RSX biển số: 84F1-116.74 của ông Nguyễn Duy B; 01 xe Honda Vision biển số: 49K1-337.57 của bà Trương Nguyễn Uyên E; 01 xe Yamaha Sirius biển số: 66M4-0697 của ông Nguyễn Tường F; 01 xe Honda Wave Anpha biển số: 60C2-377.34 của ông Nguyễn Hiếu G, nên ông T đến Công an Phường 26, quận Bình Thạnh trình báo sự việc. Công an phường đến hiện trường thu giữ 01 ổ khóa, 01 thanh kim loại hình dạng lục giác đầu dẹp dài khoảng 3 cm.

Vụ thứ 2: Khoảng 06 giờ 50 phút ngày 31/3/2017, tại nhà trọ cho thuê số 135/17/47 N, Phường K, quận Y, bà Nguyễn Thảo Y đi xuống phát hiện cửa nhà xe bị mở, bà Y báo những người cùng thuê kiểm tra thì phát hiện bị mất trộm 04 chiếc xe môtô gồm: 01 xe Honda Blade biển số: 72F1-354.45 của ông Nguyễn Phú H; 01 xe Yamaha Exciter biển số: 72C1-788.70 của ông Nguyễn Đình Đức I; 01 xe Honda Winner biển số: 29Y1-333.84 của bà Nguyễn Hữu Bảo L; 01 xe Honda Wave Blade biển số: 72D1-246.24 của bà Hồ Thị Minh K, nên H, I, L, K đến Công an Phường 22, quận Bình Thạnh trình báo sự việc.

Qua trình điều tra truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh xác định 04 đối tượng thực hiện hành vi lấy trộm 08 xe môtô trên là Lê Công A (Chó), Nguyễn Minh B (Tý sex), Thạch B C (Bắp cải), Lê Ngọc D nên ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, các bị cáo Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C, Lê Ngọc D khai cùng chơi game bắn cá tại tiệm Đ trên đường Ung Văn Khiêm, Phường 25, quận Bình Thạnh, nên quen biết nhau và đã cùng nhau thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản như sau:

Vụ thứ 1: Khoảng 02 giờ ngày 30/3/2017, Lê Công A gặp Thạch Tuấn C, Nguyễn Minh B, Q (không rõ lai lịch) tại tiệm game bắn cá Đ trên đường Ung Văn Khiêm, Phường 25, quận Bình Thạnh, A rủ đi trộm cắp tài sản và tất cả đồng ý. A điều khiển xe môtô biển số: 71B2-455.77 của C chở C ngồi sau, B điều khiển xe môtô Nouvo của Tý Nhóc chở Tý Nhóc ngồi sau, cả 04 chạy vòng vòng đến trước số nhà 210 Q, Phường 26, quận Bình Thạnh, thì A kêu dừng xe và nhìn thấy cửa nhà loại cuốn khóa ngoài, A đi đến dùng đoản và mỏ lếch bẻ khóa cửa nhưng bẻ không được, lúc này B đi đến hỗ trợ bẻ khóa cửa nhưng vẫn bẻ không được, lúc này A phát hiện ổ khóa chỉ móc 01 bên bass cửa nên cả A và B đẩy cửa cuốn lên, C và Q đứng bên ngoài giữ xe và cảnh giới, A và B vào bên trong thấy 04 xe môtô dựng liền kề nhau, A dùng đoản bẻ khóa cổ xe Honda Vision biển số: 49K1-337.57, B dùng đoản bẻ khóa cổ xe môtô Honda Wave Anpha biển số: 60C2-377.34 dẫn ra đường, A và B chạy 02 xe vừa trộm được cùng với C và Q đến tiệm game bắn cá Đ cất giữ 02 xe trên.

Sau đó cả 04 đi trên 02 xe quay trở lại nhà trên, C và Tý Nhóc đứng ngoài giữ xe và cảnh giới, A và B đi vào bên trong, A dùng đoản bẻ khóa xe môtô Yamaha Sirius biển số: 66M4-0697, B bẻ khóa cổ xe Honda Wave RSX biển số: 84F1-116.74 dẫn ra đường, A và B chạy 02 xe vừa trộm được cùng với C và Tý Nhóc về tiệm game bắn cá Đ. A đem 03 xe Honda Vision biển số: 49K1- 337.57, Yamaha Sirius biển số: 66M4-0697, Wave RSX biển số: 84F1-116.74 cho Thành (không rõ lai lịch) là khách chơi game bắn cá ở tiệm Đ được 8.500.000 đồng, B bán xe Honda Wave Anpha biển số: 60C2-377.34 cho S (không rõ lai lịch) là khách chơi game bắn cá ở tiệm Đ với giá 5.500.000 đồng. Tổng cộng 04 chiếc là 14.000.000 đồng, A chia đều mỗi người 5.500.000 đồng.

Vụ thứ 2: Vào khoảng 02 giờ ngày 31/3/2017, Lê Ngọc D gặp Nguyễn Minh B ở tiệm game bắn cá Đ, D mượn xe môtô Nouvo của Q, B điều khiển xe Nouvo chở D ngồi sau chạy trên đường Phạm Văn Đồng đoạn gần cầu Bình Triệu thì gặp Lê Công A điều khiển xe Airblade biển số: 71B2-455.77 chở Thạch Tuấn C ngồi sau. Cả 04 cùng chạy đến ngã tư Hàng Xanh thì gặp cảnh sát giao thông, do không đội mũ bảo hiểm nên rẽ vào đường hẻm tránh, chạy vòng vòng đến trước nhà 135/17/47 N, Phường K, quận Y, thì D kêu dừng xe rồi D đi đến trước cửa nhà nhìn thấy cửa sắt kéo dạt qua hai bên có khóa bên trong, D thò tay vào khoảng trống của cửa dùng đoản bẻ ổ khóa, A và B đứng bên ngoài giữ xe và cảnh giới, D và C đi vào trong nhà thấy có 02 dãy xe môtô dựng ở 02 bên vách tường, từ cửa chính nhìn vào dãy xe bên phải gần cầu thang có 04 xe môtô dựng liền kề nhau, D đi đến dẫn xe Yamaha Exciter biển số: 72C1-788.70 đưa cho C dẫn ra ngoài, D tiếp tục dùng đoản bẻ khóa cổ xe Honda Blade biển số: 72F1-35445 dẫn ra bên ngoài, D và C chạy 02 xe vừa trộm được cùng với A và B chạy về tiệm game bắn cá Đ cất giữ rồi quay trở lại nhà trên, lần này A và B đứng bên ngoài giữ xe và cảnh giới, D và C vào bên trong nhà đến vị trí cầu thang, D dùng đoản bẻ khóa cổ xe Honda Wave Blade biển số: 72D1-246.24 đưa ra cho C dẫn ra đường, tiếp đến D dùng đoản bẻ khóa cổ xe Honda Winner biển số: 29Y1-333.84 dẫn ra bên ngoài, D và C chạy 02 xe vừa trộm được cùng với A và B chạy về tiệm game bắn cá Đ. Sau đó, D bán 04 chiếc xe môtô vừa trộm được bán cho V (không rõ lai lịch) là khách chơi game ở tiệm game Đ được 24.000.000 đồng, D chia đều cho mỗi người 5.500.000 đồng, còn lại 2.000.000 đồng cho Q.

Căn cứ Thông báo kết luận số 460 ngày 21/4/2017 của Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh kết luận: 01 xe Honda Blade biển số: 72F1-354.45 trị giá 11.000.000 đồng; 01 xe Yamaha Exciter biển số: 72C1-788.70 trị giá 39.000.000 đồng; 01 xe Honda Winner biển số: 29Y1- 333.84 trị giá 39.000.000 đồng; 01 xe Honda Wave Blade biển số: 72D1-246.24 trị giá 11.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản 04 xe là 100.000.000 đồng.

Căn cứ Thông báo kết luận số 903 ngày 15/8/2017 của Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh kết luận: 01 xe Honda Wave RSX biển số: 84F1-116.74 trị giá 13.000.000 đồng; 01 xe Honda Vision biển số: 49K1-337.57 trị giá 22.000.000 đồng; 01 xe Honda Wave Anpha biển số: 60C2-377.34 trị giá 10.000.000 đồng; 01 xe Yamaha Sirius biển số: 66M6- 0697 trị giá 11.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản 04 xe là 56.000.000 đồng.

Vật chứng:

- 01 USB chứa dữ liệu ghi hình 04 đối tượng trộm cắp xe tại nhà số 120 Q, Phường X, quận Y - 01 ổ khóa bằng kim loại còn nguyên không bị hư hỏng gì - 01 đoạn kim loại hình lục giác, đầu dẹp dài khoảng 3cm - 01 xe Honda AirBlade biển số: 71B2-455.77 thu giữ của bị cáo Thạch Tuấn C. Qua giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận số khung, số máy bị mài đục lại, không xác định được số nguyên thủy. C khai xe trên của vợ là Hồ Tiểu M.

Cơ quan điều tra lấy lời khai Hồ Tiểu M cho biết xe trên M mua trên mạng của một người thanh niên (không rõ họ tên địa chỉ) đăng tin kèm số điện D rao bán với giá 17.500.000 đồng, M hẹn người thanh niên ra chân cầu vượt Hàng Xanh xem xe, khi xem xong M có hỏi người thanh niên về chiếc xe thì người thanh niên nói mua lại sử dụng chưa làm thủ tục sang tên do kẹt tiền nên bán lại, do thấy xe có giấy tờ hợp lệ nên M mua sử dụng, hiện tại M không còn nhớ số điện D của người thanh niên. Từ khi mua xe sử dụng, M không làm gì đến số khung, số máy, việc số khung, số máy bị đục M hoàn toàn không biết, giấy tờ xe M giao cho C và C đã làm mất (BL: 365).

Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Duy B yêu cầu bồi thường số tiền 15.000.000 đồng; bà Trương Nguyễn Uyên E yêu cầu bồi thường số tiền 20.000.000 đồng; ông Nguyễn Trường F yêu cầu bồi thường số tiền 10.000.000 đồng; ông Nguyễn Hiếu G yêu cầu bồi thường số tiền 10.000.000 đồng; ông Nguyễn Phú H yêu cầu bồi thường số tiền 15.000.000 đồng; ông Nguyễn Đình Đức I yêu cầu bồi thường số tiền 48.000.000 đồng; bà Hồ Thị Minh K yêu cầu bồi thường số tiền 19.000.000 đồng; đối với ông Nguyễn Hữu Bảo L thì Cơ quan điều tra liên hệ làm việc nhưng hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ nên không làm việc được.

Bản cáo trạng số 194/CTr-VKS ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C, Lê Ngọc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thuộc trường hợp có tổ chức và trị giá tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố của mình, sau khi luận tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đề nghị xử phạt bị cáo Lê Công A từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm 06 tháng tù, bị cáo Nguyễn Minh B từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù, bị cáo Thạch B C từ 04 năm tù đến 04 năm 06 tháng tù; tổng hợp với mức án 10 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 57/2018/HSST ngày 22/3/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, bị cáo Lê Ngọc D từ 03 năm tù đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo phải bồi thường cho những người bị hại theo quy định của pháp luật.

Về xử lý vật chứng: theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đề nghị được xử mức án nhẹ và tạo điều kiện cho các bị cáo được sớm trở về với gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận về toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các biên bản, lời khai, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định: các bị cáo Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C đã có hành vi cùng nhau bàn bạc lén lút thực hiện 02 vụ trộm cắp vào ngày 30/3/2017 và ngày 31/3/2017 tại nhà số 210 Q, Phường X, quận Y và nhà số 135/17/47 N, Phường K, quận Y. Tổng trị giá tài sản các bị cáo trộm là 156.000.000 đồng, còn bị cáo Lê Ngọc D thực hiện 01 vụ trộm vào ngày 31/3/2017 tại nhà số 135/17/47 N, Phường K, quận Y, trị giá tài sản là 56.000.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của các bị cáo Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C, Lê Ngọc D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp có tổ chức và trị giá tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh.

[3] Về động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bằng ý thức của mình các bị cáo biết rõ đó là tài sản đang thuộc sở hữu của người khác nhưng với ý đồ chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu xài mà không phải tốn công sức lao động vất vả nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự quản lý xã hội của Nhà nước, gây tác động xấu đến xã hội, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân. Do đó, Hội đồng xét xử cần phải xử phạt các bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Vụ án có tính chất đồng phạm, các bị cáo tổ chức cùng nhau thực hiện việc trộm cắp và sau đó tự chia tiền đồng đều với nhau.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét trước Tòa, các bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc làm sai trái của mình nên Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Các bị cáo A, B và C phạm tội 2 lần nên áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo A, C và D có thời gian chấp hành hình phạt tù nhưng các bị cáo không ăn năn hối cải, tiếp tục phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Riêng đối với bị cáo Thạch Tuấn C, Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để tổng hợp hình phạt bản án số 57/2018/HSST ngày 22/3/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại là ông Nguyễn Duy B yêu cầu bồi thường số tiền là 15.000.000 đồng

- Người bị hại là bà Trương Nguyễn Uyên E yêu cầu bồi thường số tiền 20.000.000 đồng

- Người bị hại là ông Nguyễn Trường F yêu cầu bồi thường số tiền 10.000.000 đồng

- Người bị hại là ông Nguyễn Hiếu G yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng

- Người bị hại là ông Nguyễn Phúc H yêu cầu bồi thường số tiền là 15.000.000 đồng

- Người bị hại là ông Nguyễn Đình Đức I yêu cầu bồi thường số tiền là 48.000.000 đồng

- Người bị hại là bà Hồ Thị Minh K yêu cầu bồi thường số tiền là 19.000.000 đồng

- Người bị hại là ông Nguyễn Hữu Bảo L vắng mặt, cơ quan điều tra không triệu tập được, nhưng căn cứ vào kết quả định giá thì tài sản bà L bị mất có giá trị là 39.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều đồng ý bồi thường theo yêu cầu của những người bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy: các bị cáo A, B, C thực hiện hành vi trộm cắp vào 02 ngày 30 và 31/03/2017; bị cáo Lê Ngọc D thực hiện hành vi trộm cắp 01 lần vào ngày 31/03/2017. Do đó, trách nhiệm bồi thường mà các bị cáo A, B, C phải chịu là 18.335.000 đồng cho mỗi bị cáo (của ngày 30/03/2017), bị cáo Lê Ngọc D phải chịu là 30.250.000 đồng (của ngày 31/03/2017) – các bị cáo A, B, C cùng chịu trách nhiệm dân sự là 30.250.000 đồng cho mỗi bị cáo (của ngày 31/03/2017). Tổng cộng, trách nhiệm dân sự của cả hai lần trộm cắp của các bị cáo A, B, C là 48.585.000 đồng cho mỗi bị cáo; bị cáo D phải chịu trách nhiệm dân sự là 30.250.000 đồng.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 USB chứa dữ liệu ghi hình 04 đối tượng trộm cắp xe tại nhà số 120 Q, Phường X, quận Y. Hội đồng xét xử xét thấy đây là vật chứng lưu giữ chứng cứ liên quan đến việc trộm cắp của các bị cáo nên cần lưu vào hồ sơ để lưu trữ.

- 01 ổ khóa bằng kim loại, 01 đoạn kim loại hình lục giác, đầu dẹp dài khoảng 03 cm không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe gắn máy biển số 71B2-455.77, số khung: không xác định, số máy: không xác định, nhãn hiệu: Honda, số loại: Air Blade, loại xe: 02 bánh từ 50 đến 150 cm3, dung tích xi lanh: 125 cm3 thu giữ của bị cáo Thạch Tuấn C.

Xe này là của bà Hồ Tiểu M – là vợ của bị cáo C – mua, nhưng không làm thủ tục sang tên (mua qua mạng). Tại phiên tòa, bà M không có ý kiến xin lại chiếc xe này và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

[8] Về thu lợi bất chính: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận sau khi thực hiện xong hành vi phạm tội, bị cáo D đã thu lợi được 5.500.000 đồng; các bị cáo A, C, B mỗi bị cáo đã thu lợi được 9.000.000 đồng.

Đây là số tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc các bị cáo D, A, C, B phải nộp lại để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Các bị cáo, những người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C, Ngọc D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.1. Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Công A 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/06/2018.

1.2. Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Thạch B C 04 (bốn) năm tù. Tổng hợp hình phạt 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 57/2018/HSST ngày 22/03/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; hình phạt chung cho cả hai bản án buộc bị cáo Thạch B C phải chấp hành là 14 (mười bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/06/2017.

1.3. Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc D 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/10/2018.

1.4. Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52; Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh B 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/08/2018.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên buộc các bị cáo A, B, C phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, ông Nguyễn Duy B số tiền là 15.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 5.000.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, bà Trương Nguyễn Uyên E số tiền là 20.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 6.667.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, ông Nguyễn Trường F số tiền là 10.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 3.334.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, ông Nguyễn Hiếu G số tiền là 10.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 3.334.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C, D phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, ông Nguyễn Phúc H số tiền là 15.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 3.750.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C, D phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, ông Nguyễn Đình Đức I số tiền là 48.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 12.000.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C, D phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, bà Hồ Thị Minh K số tiền là 19.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 4.750.000 đồng).

Tuyên buộc bị cáo A, B, C, D phải bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại, ông Nguyễn Hữu Bảo L số tiền là 39.000.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 9.750.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm. Nếu không có thỏa thuận thì theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 ổ khóa bằng kim loại, 01 đoạn kim loại hình lục giác, đầu dẹp dài khoảng 3cm.

- Tuyên lưu vào hồ sơ 01 USB chứa dữ liệu ghi hình 04 đối tượng trộm cắp xe tại nhà số 120 Quốc lộ 13, Phường 26, quận Bình Thạnh.

- Tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe gắn máy biển số 71B2-455.77, số khung: không xác định, số máy: không xác định, nhãn hiệu: Honda, số loại: Air Blade, loại xe: 02 bánh từ 50 đến 150 cm3, dung tích xi lanh: 125 cm3 .

4. Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Tuyên buộc các bị cáo Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C – mỗi bị cáo phải nộp lại tiền thu lợi bất chính là 9.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để sung quỹ Nhà nước Tuyên buộc bị cáo Lê Ngọc D phải nộp lại tiền thu lợi bất chính là 5.500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để sung quỹ Nhà nước.

5. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Mỗi bị cáo A, B, C, D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền; án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền mỗi bị cáo: Lê Công A, Nguyễn Minh B, Thạch B C phải bồi thường thiệt hại 48.585.000 đồng, buộc mỗi bị cáo A, B, C phải nộp án phí là 2.429.250 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền; án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền bị cáo Lê Ngọc D phải bồi thường thiệt hại 30.250.000 đồng, buộc bị cáo D phải nộp án phí DSST là 1.512.500 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Các bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HSST ngày 28/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về