Bản án 13/2019/HS-ST ngày 22/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 22/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2019/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 12/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Văn B, sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn 4, xã Th, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Th1 (Đã chết) và bà Lại Thị Ph; vợ, con: Chưa có ; tiền sự, tiền án: Không; đặc điểm nhân thân: Ngày 09/7/2012, UBND huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ra Quyết định đưa và o cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Tạm giữ ngày 26/12/2018, tạm giam ngày 29/12/2018. có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Đại Vương - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam. có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Phạm Khắc D, sinh năm 1992; nơi cư trú: Tổ 2, thị trấn Q, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1976; nơi cư trú: Tổ 7, thị trấn Q, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 ngày 26/12/2018, Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam tuần tra trên địa tổ 3, thị trấn Q, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam phát hiện Đỗ Văn B, sinh năm 1988 ở thôn 4, xã Th, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra phát hiện, thu giữ tại lòng bàn tay phải của Đỗ Văn B 01 gói nhỏ bên ngoài bọc giấy màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng đục. Đỗ Văn B khai nhận chất bột màu trắng đục bị thu giữ là ma túy cất giữ để sử dụng. Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã lập B bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng ký hiệu QT01. Khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Đỗ Văn B không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 220/PC09-MT ngày 28/12/2018 của Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,163gam loại Heroine.

Về nguồn gốc ma túy thu giữ: Đỗ Văn B khai nhận, B góp 150.000đồng cho nam thanh niên tên Đ ở xã Kh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam sau đó Đ chở B đi mua ma túy của người không quen biết ở thị trấn Q, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà

Nam về sử dụng. Do B không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể cùng đặc điểm nhận dạng nam thanh niên tên Đ nên cơ quan điều tra không xác minh, làm rõ được.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKSKB ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố Đỗ Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Đỗ Văn B từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ 26/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lývật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 220/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Người bào chữa cho bị cáo nhất trí về tội danh, hành vi bị cáo đã thực hiện, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên. Bị cáo nhất trívới ý kiến của người bào chữa, cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên tòa và quá trình điều tra, bị cáo Đỗ Văn B thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội phù hợp với B bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ 30 ngày 26/12/2018, tại tổ 3, thị trấn Q, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Công an huyện Kim Bảng bắt quả tang Đỗ Văn B, sinh năm 1988, ở thôn 4, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam tàng trữ trái phép 0,163gam Heroine mục đích để sử dụng. Hành vi đó của Đỗ Văn B đãphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lýcủa Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo cất giữ 0,163gam Heroine mục đích để sử dụng làcất giữ bất hợp pháp, trái quy định của Nhà nước. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu cánhân màvẫn cố ýthực hiện.

Do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử nghiêm minh.

[3] Khi quyết định hình phạt Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu nhưng bị cáo có nhân thân xấu vìngày 09/7/2012, UBND huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ra quyết định đưa và o cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, sau khi chấp hành xong nhưng không lấy đó làm bài học để sửa chữa sai lầm của bản thân màlại phạm tội. Do đó phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội, luôn có ý thức chấp hành chính sách pháp luật đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng…hoặc bị tịch thu một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung làphạt tiền hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, tài sản và là người mắc nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc ma túy thu giữ: Đỗ Văn B khai nhận, góp 150.000đồng cho nam thanh niên tên Đ ở xã Kh, huyện Kim Bảng, sau đó Đ chở bị cáo đi mua của người không quen biết ở thị trấn Q, huyện Kim Bảng về sử dụng. Do bị cáo không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể cùng đặc điểm nhận dạng nam thanh niên tên Đ nên cơ quan điều tra không xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật được.

[6] Về xử lývật chứng: Vật chứng đã được cơ quan điều tra giao nhận đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 24/01/2019 gồm 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 220/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01 làvật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn B 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ ngày 26/12/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bìniêm phong nguyên vẹn số 220/PC09 -MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01 (Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 24/01/2019).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lývà sử dụng án phívà lệ phíTòa án. Bị cáo Đỗ Văn B phải chịu 200.000đồng án phíhình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 22/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về