Bản án 13/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 04 tháng 6 năm 2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Mường Lát mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2019/HSST ngày 19 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Văn L - Sinh năm 1988, nơi sinh: Xã Tén T, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Đội 3, bản Tén T, xã Tén T, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 11/12 ; Dân tộc: Thái; Con ông: Đinh Văn D, sinh năm 1964 và con bà: Hà Thị Á, sinh năm 1968; Có vợ là: Vi Thị H - Sinh năm 1995; có 01(một) con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không, bị cáo Đinh Văn L bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/ 01 /2019 đến nay, Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Ngọc Kh, sinh năm 1985; nghề nghiệp:Trợ giúp viên pháp lý; nơi công tác: Chi nhánh số 1, thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 18 giờ 15 phút, ngày 14 tháng 01 năm 2019, tổ công tác lực lượng Đồn Biên phòng cửa khẩu Tén Tằn – Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt quả tang Đinh Văn L, sinh năm 1988, ở tại bản Tén T, xã Tén T, huyện Mường Lát đang vận chuyển trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ trong người của bị cáo Luân 03 (ba) gói nilon màu trắng gồm 01( một) gói có chứa 10 (mười) viên hồng phiến ( ma túy tổng hợp) và 02 (hai) gói có chứa heroin về Việt Nam cho một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với số tiền công là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Bị cáo L khai nhận đó là heroin (bút lục số 01-02; 28; 41-58).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đinh Văn L đã khai: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14 tháng 01 năm 2019, đi bộ từ nhà theo đường mòn sang bản Na Táu, huyện Sốp Bâu ( nước Công hòa dân chủ nhân dân Lào) để mua chó, thì gặp một người đàn ông Lào khoảng 50 tuổi mà L không biết tên, địa chỉ thuê L vận chuyển ma túy về Việt Nam cho một người đàn ông với số tiền công là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), L đồng ý, cầm trên tay phải 03 (ba) gói nilon màu trắng gồm 01( một) gói có chứa 10 (mười) viên hồng phiến ( ma túy tổng hợp) và 02 (hai) gói có chứa heroinh đi bộ theo đường mòn về Việt Nam cho một người đàn ông không biết tên, địa chỉ, khi L đi đến khu vực bờ nam sông Mã cách đường biên giới khoảng 25(hai mươi lăm)m, thuộc địa phận xã Tén T, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa thì bị đội Biên phòng cửa khẩu Tén Tằn - BĐBP tỉnh Thanh Hóa bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số: 415/ MT-PC09 ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

- 10 (mười) viên dạng nén tròn dẹt màu hồng có ký hiệu WY gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,074g (một phẩy không bảy bốn gam) loại: Methamphetamine;

- Chất bột màu trắng dạng cục gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,589g ( không phẩy năm tám chín gam) loại: heroin. Tổng khối lượng ma túy 1,633g ( 1,074g loại: Methamphetamine và 0,589g loại: Heroin);

Tại Cáo trạng số: 13/CT-VKS-ML ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố Đinh Văn L về tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 2 điều 250 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng, đồng thời phân tích tính chất, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự áp dụng đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ: Điểm e khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Đinh Văn L từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

Miễn hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo Đinh Văn L.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đinh Văn L.

Người chữa cho bị cáo có quan điểm thống nhất, không tranh luận về tội danh và điều khoản áp dụng đối với bị cáo mà Kiểm sát viên đã trình bày khi luận tội. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo L đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năm hối cải, ngoài ra là người dân tộc thiểu số, lại sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn của biên giới, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, được qui định tại điểm s khoản1và khoản 2 Điều 51 BLHS. Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức hình phạt thấp, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo sớm được về với gia đình và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn L nhận tội, đồng tình với bản luận cứ bào chữa của trợ giúp viên pháp lý đã bào chữa cho bị cáo, không thay đổi, bổ sung thêm gì, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo một mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Hội đồng xét xử, Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo, bị cáo Đinh Văn L không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp theo quy định pháp luật.

[2]. Về tội danh:Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định số: 415/MT-PC09 ngày 16 tháng 01 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 14/01/2019 Đinh Văn L vận chuyển 03(ba) gói nhỏ heroin có tổng khối lượng 1,633g (một phẩy sáu ba ba gam) loại: Methamphetamine và heroin từ bản Na Táu, huyện Sốp Bâu (nước CHDCND Lào) về Việt Nam thì bị lực lượng Đồn cửa khẩu Tén Tằn- BĐBP, tỉnh Thanh Hóa phát hiện và lập biên bản phạm pháp quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.Theo quy định tại điểm e khoản 2 điều 250 Bộ luật Hình sự thì:

“1.Người nào vân chuyển trái phép chất ma túy mà không nhằm nục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm;

a)...

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam;

2. Phạm tội thuộc một trong các trương hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm;

a)...

e) Qua biên giới;

....”

Hành vi vận chuyển Mathamphetamine và heroin của bị cáo Đinh Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự 2015, như kết luận của kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả của vụ án: Hành vi là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết tác hại của ma túy, nhận thức việc vận chuyển trái phép ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện để nhằm thu lời bất chính cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước, làm tổn hại đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phá vở hạnh phúc gia đình và còn làm gia tăng các loại tội phạm, gây lây lan căn bệnh HIV/AIDS, gây mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, bị xã hội lên án, phẫn nộ, cần phải xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật đồng thời để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, có thái ăn năn hối cải. Do vậy, được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[5]. Về hình phạt bổ sung :Theo quy định tại khoản 5 điều 250 Bộ luật hình sự: “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, vùng giáp biên giới, gia đình bị cáo có sổ hộ nghèo, không có thu nhập khác ngoài làm nương rẫy. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Cơ quan công an thu giữ của bị cáo 03 (ba) gói nilon màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 1,074g (một phẩy bảy bốn gam ) loại: Methamtamine và 0,589g (không phẩy năm tám chín gam) loại: Heroin. Sau khi lấy mẫu giám định còn lại là tang vật của vụ án, đây là chất nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.Theo quy định tại điểm c khoản1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[7]. Về các vấn đề khác: Đối với một người đàn ông khoảng 50 tuổi là người thuê Luân vận chuyển ma túy là người Lào do không biết tên, địa chỉ Công an huyện Mường Lát không đủ điều kiện xác minh làm rỏ.

[8]. Xét về án phí và quyền kháng cáo: Theo quy định tại điểm đ khoản1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; bị cáo được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Văn L phạm tội " Vận chuyển trái phép chất ma tuý"

Áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Văn L 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 14/01/2019).

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu để tiêu hủy 1,074g (một phẩy bảy bốn gam ) loại: Methamtamine và 0,589g (không phẩy năm tám chín gam) loại: Heroin. Sau khi lấy mẫu giám định còn lại là tang vật của vụ án, đây là chất nhà nước cấm lưu hành.

Số vật chứng hiện đang quy trữ, bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mường Lát. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/02/2019 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục thi hành án dân sự huyện Mường Lát.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Miễn tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đinh Văn L.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, dành quyền kháng cáo cho bị cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

427
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về