Bản án 13/2018/HS-ST ngày 22/03/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 13/2018/HS-ST NGÀY 22/03/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2018/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Đặng Bá N, sinh năm 1990 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký HKTT: Xóm X, xã BL, huyện GT, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn B và bà Trần Thị Ê; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Ông Trần Doãn T, sinh năm 1989; HKTT: Xóm Đ, xã VB, huyện BL, tỉnh Hà Nam; chỗ ở hiện nay: Khu phố KT, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Đặng Văn M, sinh năm 1991; HKTT: Xóm X, xã BL, huyện GT, tỉnh Nam Định; chỗ ở hiện nay: Khu phố BĐ, phường AB, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Bá N và em trai tên Đặng Văn M cùng làm công nhân tại xưởng gỗ QT thuộc khu phố KV, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên từ khoảng giữa tháng 04/2017. Trong quá trình làm việc tại đây, N quen biết với ông Trần Doãn T là người quản lý xưởng gỗ QT; đến ngày 11/4/2017, M xin nghỉ làm việc cho xưởng gỗ QT, còn N vẫn tiếp tục làm việc ở đây.

Khoảng 12 giờ ngày 24/4/2017, vào giờ nghỉ trưa N đến gặp ông T để hỏi mượn chiếc xe môtô hiệu Yamaha Nouvo màu xanh trắng, biển số 90B1-565.62 để đến phòng trọ của người bạn tên T2 (không rõ nhân thân và lai lịch) để phụ T2 khoan tường, ông T đồng ý. Do chiếc xe môtô biển số 90B1-565.62 luôn được cắm sẵn chìa khóa trên ổ khóa xe nên N đi đến khu vực để xe trong xưởng gỗ lấy xe rồi điều khiển đi đến phòng trọ của T2 ở gần chợ Chí Hùng thuộc phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên để giúp T2 khoan tường. Khi đến nơi, do T2 không có ở phòng trọ mà đang làm công trình ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh chung với Đặng Văn M; T2 nói với N đến làm phụ T2 cho kịp thời gian giao công trình. Nghe vậy, N điều khiển xe môtô biển số 90B1-565.62 đến nơi T2 làm việc để làm phụ T2 và Mùi. Khoảng 15 giờ cùng ngày, do không thấy N về trả xe nên anh T gọi điện thoại di động cho N nhưng N không nghe máy, anh T tiếp tục gọi nhiều lần cho N và nhắn tin vào số điện thoại của N yêu cầu N trả xe đồng thời nhắn tin trên mạng xã hội Zalo nhưng N vẫn không trả lời. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, N cùng với T2 đưa M về phòng trọ của Mùi, sau đó N cùng T2 đi về phòng trọ của T2. Do không có phương tiện đi lại nên N nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe môtô biển số 90B1-565.62 của ông T để sử dụng. Thực hiện ý định, N không phụ T2 khoan tường mà điều khiển xe môtô biển số 90B1-565.62 của ông T đi về phòng trọ của M và nghỉ làm việc ở xưởng gỗ QT, khóa điện thoại, chặn tài khoản Zalo để ông T không liên lạc được. Do liên lạc nhiều lần với N nhưng N không trả lời, ông T nghi ngờ N có ý định chiếm đoạt xe của mình nên ông T dò hỏi thăm nhiều người thì được biết N đang ở trọ khu vực phường An Bình, thị xã Dĩ An. Sau đó, ông T đến trình báo cho Công an phường An Bình biết nội dung sự việc. Do sự việc xảy ra tại khu vực phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên nên Công an phường An Bình hướng dẫn ông T đến trình báo nội dung sự việc cho Công an phường Khánh Bình, đồng thời tiến hành kiểm tra hành chính các nhà trọ khu vực phường An Bình. Quá trình kiểm tra, phát hiện tại phòng số 8 thuộc nhà trọ của bà Nguyễn Thị Thu H có 01 chiếc xe môtô hiệu Yamaha Nouvo màu xanh trắng, biển số 90B1-565.62 giống như trình báo của ông T cùng với Đặng Bá N và Đặng Văn M đang ở phòng trọ này nên Công an phường An Bình mời N, M về trụ sở để làm việc. Tại Công an phường An Bình, N đã khai nhận hành vi chiếm đoạt xe của ông T nên Công an phường An Bình đã chuyển giao N cùng xe mô tô biển số 90B1-565.62 cho Công an phường Khánh Bình để xử lý theo quy định. Công an phường Khánh Bình đã tiến hành thu giữ vật chứng và các tài liệu đồ vật có liên quan gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, màu xanh trắng, biển số 90B1 - 565.62; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 90B1 -565.62; 01 giấy Chứng minh nhân dân mang tên Đặng Bá N; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng bạc; 01 sổ hộ chiếu mang tên Đặng Văn M. Sau đó, Công an phường Khánh Bình lập hồ sơ chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền sau đó Đặng Bá N đi khỏi nơi cư trú. Đến ngày 09/11/2017, Đặng Bá N bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bắt sau đó bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên để điều tra theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 124/KLTS – TTHS ngày 17/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên kết luận: Xe mô tô hiệu Yamaha, màu xanh trắng, biển số 90B1 - 565.62 đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 17.450.000đ (Mười bảy triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Bản Cáo trạng số 17/QĐ-VKS.TU ngày 09/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố Đặng Bá N về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a Khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa:

Bị cáo trình bày thống nhất với nội dung của bản cáo trạng. Do mượn xe đi công việc về trễ sợ ông T chửi mắng nên sau khi mượn được chiếc xe mô tô biển số 90B1 -565.62 của ông Trần Doãn T, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt để sử dụng. Thực hiện ý định của mình, bị cáo nghỉ làm việc ở xưởng gỗ QT, khóa điện thoại, chặn tài khoản Zalo để ông T không liên lạc được rồi chuyển chỗ ở đến ở cùng phòng trọ với em trai là Đặng Văn M. Quá trình ở chung phòng trọ với Mùi, M biết nguồn gốc của chiếc xe nêu trên và có nói N mang xe trả lại cho ông T nhưng N chưa trả. Đến ngày 09/11/2017, bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bắt và bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên. Bị cáo nhận thức được lỗi lầm của mình, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt và đề nghị được nhận lại chứng minh nhân dân và chiếc điện thoại Oppo đã bị thu giữ.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46; điểm a Khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt Đặng Bá N mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Chiếc xe là tài sản bị chiếm đoạt đã được xử lý, trả cho người bị hại nên không xem xét; đề nghị trả cho bị cáo Chứng minh nhân dân mang tên Đặng Bá N và chiếc điện thoại di động hiệu Oppo; trả lại cho ông Đặng Văn M hộ chiếu mang tên Đặng Văn M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

2. Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất thừa nhận hành vi sau khi mượn được chiếc xe mô tô biển số 90B1 - 565.62 của ông Trần Doãn T vào ngày 24/4/2017 để đi khoan phòng giúp bạn, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe này để làm phương tiện đi lại nên đã nghỉ việc tại xưởng gỗ QT, khóa điện thoại, chặn tài khoản Zalo để ông T không liên lạc được rồi chuyển chỗ ở đến ở cùng phòng trọ với em trai là Đặng Văn M. Đến ngày 09/11/2017, bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bắt và bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và biên bản thu giữ, định giá tài sản. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 24/4/2017, bị cáo Đặng Bá N sau khi mượn được chiếc xe mô tô biển số 90B1 - 565.62 của ông Trần Doãn T trị giá 17.450.000 đồng thì nảy sinh ý định chiếm đoạt. Để thực hiện ý định của mình, bị cáo đã nghỉ việc tại xưởng gỗ của ông T, khóa số điện thoại, chặn tài khoản Zalo, chuyển nơi ở để trốn tránh sự tìm kiếm của ông T. Hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

3. Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện các hành vi nêu trên, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thấy trước hậu quả, đồng thời mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Do đó, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

Từ những nhận xét nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi lợi dụng lòng tin của người khác sau khi giao tài sản cho mượn đã nảy sinh ý định và thực hiện hành vi chiếm đoạt là vi phạm pháp luật, sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn nhanh chóng có tài sản để sử dụng mà không phải bỏ tiền mua nên đã cố ý phạm tội. Hành vi đó thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, làm mất lòng tin của người dân với nhau. Vì vậy, việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đối với hành vi của Đặng Văn M biết rõ Đặng Bá N chiếm đoạt xe mô tô biển số 90B1- 565.62 của ông T nhưng do hành vi của N chỉ đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, đồng thời do M là em ruột của N, nên hành vi của M không đủ yếu tố cấu thành tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313, 314 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Tân Uyên không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự đối với M là đúng quy định.

4. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

5. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại nên thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt nêu trên là có căn cứ, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.

6. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc xe mô tô biển số 90B1 - 565.62 của ông Trần Doãn T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã thu hồi, trả lại chiếc xe nêu trên kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe, ông T không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

Đối với giấy chứng minh nhân dân số 162978149 mang tên Đặng Bá N và hộ chiếu số C2884825 mang tên Đặng Văn M là giấy tờ tùy thân của bị cáo N và ông M nên trả lại.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, có màn hình loại điện thoại cảm ứng là tài sản ông T cho bị cáo N, bị cáo N có yêu cầu nhận lại nên trả lại cho bị cáo.

7. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Đặng Bá N phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 140; điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Đặng Bá N 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2017.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại cho bị cáo Đặng Bá N giấy chứng minh nhân dân số 162978149 mang tên Đặng Bá N và chiếc điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, có màn hình loại điện thoại cảm ứng, có nhiều đường rạn nứt không rõ hình dạng;

Trả lại cho ông Đặng Văn M hộ chiếu số C2884825 mang tên Đặng Văn M.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/02/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Tân Uyên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên).

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Đặng Bá N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HS-ST ngày 22/03/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:13/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về