Bản án 13/2017/HSST ngày 21/03/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 13/2017/HSST NGÀY 21/03/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2017 tại TAND huyện Hà Trung xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2017/ HSST ngày 19 tháng 01 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Lê Năng H      Sinh năm 1988

Tại: Tĩnh H, Tỉnh G, Thanh H.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn T, xã Hải H, huyện Tỉnh G, Thanh Hóa.

Nghề nghiệp: Lao động tự do       Trình độ văn hóa: 12/12

Con ông: Lê Năng H và bà: Lê Thị T

Gia đình có 3 chị em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền sử: Không        Tiền án: Không

Nhân thân: Ngày 01/8/2008 sử dụng trái phép chất ma túy, bị bắt và lập hồ sơ.

Bị tạm giữ: Từ ngày 15/11/2016 đến ngày 24/11/2016;

Bị tạm giam từ ngày 24/11/2016 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn C         Sinh năm 1989

Tại: Hải H, Tỉnh G, Thanh H.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn T, xã H, huyện Tỉnh G, Thanh Hoá.

Nghề nghiệp: Lao động tự do        Trình độ văn hóa: 12/12

Con ông: Nguyễn Văn T và bà: Nguyễn Thị D

Gia đình có 4 chị em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền sự: Không.      Tiền án: Không

Bị tạm giữ: Từ ngày 15/11/2016 đến ngày 24/11/2016;

Bị tạm giam từ ngày 24/11/2016 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà

NHẬN THẤY

Các bị cáo bị VKSND huyện Hà Trung truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/11/2016, Lê Năng H rủ Nguyễn Văn C cùng ở xã H, huyện Tĩnh G, tỉnh Thanh Hóa góp tiền đi ra huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa mua Hêrôin để sử dụng, H và C thống nhất mỗi người góp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) do C cầm tiền, sau đó cả hai bắt xe khách ra huyện Hà Trung. Khi đến chợ Lèn, thuộc Tiểu khu 2, thị trấn Hà Trung, C trả tiền xe khách hết 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) cả hai xuống xe, C đưa cho H 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) sau đó C và H đi bộ trên đường đê rồi rẽ trái dốc đi đến ngã ba thôn Thượng Quý, xã Hà Phong, huyện Hà Trung, C đứng lại ở ngã ba đợi H đi mua ma túy, H đi vào một ngõ bên phải đi tiếp khoảng 50m và hỏi mua ma túy của một người thanh niên khoảng 20 tuổi không quen biết 01 gói Hêrôin được bọc bên ngoài bằng nilon màu trắng, bên trong là lớp giấy trắng với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). H cầm gói Hêrôin vừa mua được ở tay phải rồi quay lại chỗ C đang đứng đợi, sau đó C và H đi bộ theo đường cũ ra Quốc lộ 1A đón xe để về nhà, khi đi đến khu dốc đường đê thuộc Tiểu khu 3 thị trấn Hà Trung thì bị tổ công tác Công an huyện Hà Trung kiểm tra, do sợ bị phát hiện nên H đã thả gói Hêrôin xuống mặt đường cạnh vị trí H và C đang đứng, bị Công an phát hiện và thu giữ, kiểm tra trong người H không phát hiện thêm gì, kiểm tra trong người C phát hiện và thu giữ 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Khi bị Công an thu giữ gói nhỏ, C và H đã khai nhận đó là Hêrôin mua để sử dụng nên tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Năng H và Nguyễn Văn C về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Theo kết quả giám định của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thanh Hóa thì chất bột màu trắng ngà dạng cục trong 01 gói nilon thu của Lê Năng H và Nguyễn Văn C có thành phần Hêrôin với tổng trọng lượng 0,308 gam. Tại kết luận số 552/MT-PC 54 ngày 07/3/2017 Giám định bổ sung kết luận hàm lượng Hêrôin là 58,32%, do đó trọng lượng chất Hêrôin các bị cáo tàng trữ được xác định là 0,308gam x 58,32% = 0,179 gam (không phẩy một bảy chín gam).

Tại bản cáo trạng số 01/CTr- VKS ngày 17/01/2017, VKSND huyện Hà Trung đã truy tố Lê Năng H và Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Tại phiên toà, đại diện VKSND đề nghị căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 điều 46, điều 33, điều 53 BLHS năm 1999; Điều 1 NQ 144/2016/QH13; khoản 3 điều 7 BLHS năm 2015; khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015; để xử phạt Lê Năng H từ 18 đến 21 tháng tù, xử phạt Nguyễn Văn C từ 15 đến 18 tháng tù. Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Hêrôin là mẫu vật còn lại sau giám định, trả lại số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo Lê Năng H, Nguyễn Văn C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra (BL: 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 89, 90, 91, 92, 93, 94, 95); phù hợp với lời khai của người làm chứng Dương Văn H (BL: 47, 48, 49, 50) phù hợp với tang vật đã thu giữ được và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 15 tháng 11 năm 2016 tại Tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa Lê Năng H và Nguyễn Văn C đã tàng trữ trái phép 0,179 gam (không phẩy một bảy chín gam) Hêrôin. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS

Cáo trạng số 01/Ctr-VKS ngày 17/01/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 điều 194 BLHS năm 1999 là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 7 BLHS năm 2015 thì những tình tiết có lợi cho người phạm tội được áp dụng trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành, Khoản 1 Điều 194 Bộ Luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” nhưng tại khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015 quy định “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:

a..., b..., c Hêrôin, côcain,...có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam. Do đó khi quyết định hình phạt cần thiết phải áp dụng Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội, tiếp tục áp dụng khoản 3 điều 7 và điều khoản có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015 đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, trong đó Lê Năng H là người có vai trò chính trong vụ án, H là người khởi xướng việc góp tiền mua ma túy, trực tiếp đi mua ma túy, Nguyễn Văn C là người cùng góp tiền và cùng đi mua ma túy để sử dụng; Ngày 01/8/2008 Lê Năng H sử dụng trái phép chất ma túy, bị bắt và lập hồ sơ chứng tỏ nhân thân H xấu vì vậy H phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với C.

Các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về các chất ma túy, tội mà toàn xã hội lên án mạnh mẽ và kiên quyết đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi, bởi tác hại của nó đối với giống nòi, đối với trật tự an toàn xã hội, với cuộc sống bình yên của chính gia đình các bị cáo. Bản thân các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, do vậy cần xử lý nghiêm minh và cần cách ly các bị cáo khỏi xã hội để các bị cáo có thời gian rèn luyện, cải tạo thành người có ích cho xã hội. Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 BLHS.

Thời gian các bị cáo bị tạm giữ, tạm giam sẽ được tính vào thời gian chấp hành hình phạt.

Về xử lý vật chứng: Toàn bộ chất ma túy cùng các mẫu vật còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 100.000VND thu của Nguyễn Văn C là tiền của các bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho các bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Lê Năng H khai đã mua ma túy của một người thanh niên khoảng 20 tuổi không quen biết ở gần ngã ba thôn Thượng Quý, xã Hà Phong, huyện Hà Trung, quá trình điều tra cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của người này nên không có cơ sở để điều tra mở rộng vụ án.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Năng H, Nguyễn Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điều 33, điều 53 BLHS năm 1999; khoản 3 điều 7, điểm c khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015; Nghị quyết 144/2016/QH13 đối với cả hai bị cáo.

Xử phạt Lê Năng H 21 (Hai mươi mốt) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 15/11/2016).

Xử phạt Nguyễn Văn C 15 ( Mười lăm) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 15/11/2016).

Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 điều 76 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định (theo biên bản giao nhận mẫu vật sau giám định giữa Tòa án nhân dân huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung ngày 13/3/2017).

Trả lại cho Lê Năng H, Nguyễn Văn C mỗi bị cáo 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng).

Án phí: Căn cứ điều 99 BLTTHS, điều 6, khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Lê Năng H, Nguyễn Văn C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HSST ngày 21/03/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về