Bản án 131/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 131/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 121/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2020/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức B; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 23 tháng 9 năm 1999; tại: Lâm Đồng; HKTT và cư trú: Tổ X, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Thợ hồ; con ông: Nguyễn Đức Tr và bà: Lê Thị Thu Ng; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 28/8/2020 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 20/8/2020 Công an phường L, TP. B phối hợp với Đội CSĐTTP về ma túy tiến hành kiểm tra phòng trọ số N, địa chỉ: Số K đường L, phường L, TP. B. Tại thời điểm kiểm tra phát hiện trong phòng số 02 có Nguyễn Đức B, Thiều Tấn Gi và Đỗ Mỹ T. Qua kiểm tra trên chiếc nệm màu xanh đặt dưới sàn trong phòng có 01 gói nylon màu trắng, có rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu đỏ, kích thước 1,7cm x 02cm, bên trong có 01 mảnh vỡ viên nén màu xanh, nghi là chất ma túy. Theo B khai nhận thì đó là ma túy đá. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Đức B về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ toàn bộ số ma túy nói trên.

Quá trình làm việc xác định: Vào ngày 19/8/2020 khi B đi hát karaoke cùng với nhóm bạn tại quán T thì được T’ (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đưa cho 01 gói nylon, kích thước 1,7cm x 02cm, có rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu đỏ, bên trong có 01 viên nén màu xanh là ma túy dạng “kẹo”. B lấy ra cắn một ít sau đó bỏ lại vào trong túi quần. Khi về đến phòng trọ thì B có nằm ở chiếc nệm màu xanh đặt dưới sàn nên gói ma túy bị rơi xuống nệm. Sau đó, B lên gác ngủ thì bị công an đến kiểm tra và phát hiện thu giữ gói ma túy nói trên.

Tại kết luận giám định số 1481 ngày 24/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu một mảnh viên nén đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2151g, loại MDMA.

Quá trình điều tra tạm giữ: 02 phong bì niêm phong sau giám định số 1481/2020/PC09; 01 bản chính giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức B.

Tại bản Cáo trạng số 129/CT-VKSBL, ngày 26 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo B từ 15 đến 18 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong số 1481/2020/PC09; trả lại cho bị cáo 01 Chứng minh nhân dân tên Nguyễn Đức B; buộc bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo B khai nhận, đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nêu, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì về nội dung Cáo trạng, thấy đúng với tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố B; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; tại phiên tòa bị cáo không thắc mắc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật.

[2] Về căn cứ xác định tội: Nguyễn Đức B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2151 gam ma túy loại MDMA, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Đối chiếu lời khai của bị cáo, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo B đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Về tính chất mức độ, hậu quả hành của vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố B. Vì vậy, cần áp dụng cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Đối với Thiều Tấn Gi và Đỗ Mỹ T, tại thời điểm bắt quả tang Gi và T đang ở trong phòng trọ cùng B. Tuy nhiên, Gi và T không có hành vi giúp sức B tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự đối với hành vi của Giả và Tâm.

[6] Về xử lý vật chứng: 02 phong bì niêm phong số 1481/2020/PC09, xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy; 01 Chứng minh nhân dân tên Nguyễn Đức B là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo B phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố, bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong số 1481/2020/PC09. Trả lại cho bị cáo B 01 bản chính Chứng minh nhân dân tên Nguyễn Đức B. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B với Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo B phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:131/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về