Bản án 131/2018/HNGĐ-ST ngày 31/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 131/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 297/2017/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2017, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 11/4/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hà Thị Q, sinh năm 1984

ĐKHKTT: SN 3, tổ 3, phường M, thành phố T, tỉnh T.

Nơi ở hiện nay: SN 5, tổ 3, phường M, thành phố T, tỉnh T. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Dương Văn T, sinh năm 1984

ĐKHKTT: SN 3, tổ 3, phường M, thành phố T, tỉnh T.

Nơi ở hiện nay: SN 2, tổ 2, phường M, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có qua thời gian tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Anh chị đăng ký kết hôn ngày 25/9/2010 tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố T, tỉnh T. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống tại tổ 2, phường M, thành phố T. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng thường cãi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng mặc dù đã được hai bên gia đình nội ngoại và cơ quan hoà giải nhưng không có kết quả, vợ chồng chính thức sống ly thân từ tháng 9/2017 đến nay. Chị Hà Thị Q xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dương Văn T.

Quá trình giải quyết anh Dương Văn T cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn như chị Hà Thị Q trình bầy là không đúng, vợ chồng anh không có mâu thuẫn gì, anh vẫn yêu thương vợ và xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn. Chị Q xin ly hôn anh không đồng ý, đề nghị Toà án bác yêu cầu của chị Q.

Về con chung: Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T có 02 con chung (Một con trai, một con gái) là Dương Quang M, sinh ngày 23/3/2011 và Dương Minh P, sinh ngày 23/9/2015. Quá trình giải quyết chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T cùng thống nhất chị Q là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung sau ly hôn, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Q là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng/ hai con.

Về tài sản và vay nợ chung: Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T cùng xác định không có tài sản chung, không có vay nợ chung trong quá trình chung sống nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Thời gian từ năm 2010 đến đầu năm 2017 chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T tạm trú tại tổ 2, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Q vợ chồng bình thường, không thấy xảy ra mâu thuẫn gì, chính quyền tổ không nghe thấy hoặc phải hoà giải mâu thuẫn của anh chị. Giữa năm 2017, anh chị chuyển đi sinh sống nơi khác không báo tạm vắng và nơi chuyển đến.

* Kết quả xác minh tại gia đình của chị Q thể hiện: Tháng 6/2017, chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T chuyển đến sinh sống cùng nhà với bố mẹ đẻ chị Q tại tổ 1, phường P, thành phố T, tỉnh T. Thời gian này anh T thường xuyên có thái độ cau có, nói năng với vợ con rất thiếu văn hoá nhưng gia đình bên ngoại không dám nhắc nhở, can thiệp vì sợ thái độ của anh T và bất lợi cho con gái mình. Đến tháng 12/2017 thì xảy ra việc anh T đánh vợ con và đấm vỡ cửa kính phòng tắm khi chị Q đang tắm, sự việc có sự có mặt và hoà giải của chính quyền địa phương. Sau sự việc này, anh T mang tư trang cá nhân nói là đi thuê nhà nên không rõ chị Q và anh T có gặp nhau hay không, nhận thấy khả năng đoàn tụ của anh chị là rất khó.

* Kết quả xác minh tại gia đình của anh T thể hiện: Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng của chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T thường xuyên mâu thuẫn do chị Q không quan tâm đến chồng và gia đình nhà chồng. Từ cuối năm 2017 chị Q và anh T sống ly thân, chị Q và các con ở nhà bố mẹ đẻ còn anh T thuê nhà ở một mình. Từ đó chị Q không qua lại hoặc hỏi thăm gì gia đình nhà chồng nữa, nhận thấy mâu thuẫn của chị Q và anh T kéo dài nhiều năm và ngày càng trầm trọng, Toà án nên giải quyết cho anh chị ly hôn.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Riêng phía bị đơn chấp hành chưa nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T có đăng ký kết hôn ngày 25/9/2010 tại UBND phường M, thành phố T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, hiện đã sống ly thân. Chị Q đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh T nhưng anh T không đồng ý. Căn cứ Điều 56 Luật HN&GĐ, đề nghị Hội đồng xét xử xử theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Hà Thị Q; Giao cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung theo ý kiến anh chị đã thống nhất

trong quá trình hoà giải. Về tài sản và vay nợ chung: Không xem xét giải quyết do các đương sự xác định không có và không yêu cầu. Chị Q và anh T phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ (gửi bảo đảm qua đường bưu điện và tống đạt trực tiếp) các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Tại phiên toà, chị Hà Thị Q có mặt, anh Dương Văn T vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Dương Văn T là đúng quy định pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T kết hôn trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng quy định pháp luật, như vậy quan hệ hôn nhân của chị Q và anh T là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Từ cuối năm 2017 anh chị sống ly thân, chị Q có đơn yêu cầu ly hôn với anh T. Quá trình Toà án giải quyết, anh Tuấn không nhất trí ly hôn với chị Q nhưng không có mặt đủ tại các buổi hoà giải do Toà án tiến hành.

Qua việc điều tra, xác minh thể cuộc sống chung của chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T có nhiều mâu thuẫn dẫn đến hiện đang sống ly thân. Như vậy, có cơ sở cho thấy hôn nhân của chị Q và anh T đã lâm vào tình trạng thực sự trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ chung sống. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận xử cho chị Hà Thị Q được ly hôn với anh Dương Văn T.

[3] Về con chung: Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T có 02 con chung hiện đang do chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Q và anh T cùng thống nhất chị Q là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung sau ly hôn, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Q là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng/ hai con. Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định chị Q có công việc và thu nhập ổn định (bình quân trên 4.000.000đ/tháng), thời gian làm việc theo giờ hành chính, có thể đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho các con chưa thành niên nên chấp nhận sự thoả thuận của anh chị. Giao 02 con chung là Dương Quang M, sinh ngày 23/3/2011 và Dương Minh P, sinh ngày 23/9/2015 cho chị Hà Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Do chị Q và anh T đã thống nhất về việc cấp dưỡng nên chấp nhận buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Q là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng/ hai con. Anh Dương Văn T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản và vay nợ chung: Các đương sự xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Hà Thị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; anh Dương Văn T phải chịu án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Hà Thị Q và anh Dương Văn T được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 147, khoản 2 Điều 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

 Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị Q được ly hôn với anh Dương Văn T.

2. Về con chung: Xử giao 02 con chung là Dương Quang M, sinh ngày 23/3/2011 và Dương Minh P, sinh ngày 23/9/2015 cho chị Hà Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Dương Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Q là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng/ hai con. Chia ra là 750.000đ (Bẩy trăm năm mươi đồng)/tháng/con, cho đến khi hai con đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng, kể từ tháng 6/2018. Anh Dương Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Chị Hà Thị Q phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005023 ngày 26/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Chị Hà Thị Q đã nộp đủ án phí của vụ án.

Anh Dương Văn T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Chị Hà Thị Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Dương Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

" Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2018/HNGĐ-ST ngày 31/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:131/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về