Bản án 130/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 130/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019; quyết định hoãn phiên tòa ngày 13/8/2019 đối với bị cáo:

Nông Quốc T, sinh ngày 19 tháng 7 năm 1980, tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã B, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Số 18/01, đường C, phường D, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Cán bộ trường E (Quyết định thôi việc từ ngày 01/4/2019). Bị cáo là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, sinh hoạt tại Chi bộ Trường E (đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo quyết định số 62/QĐ/KTĐUK ngày 18/4/2019 của Ủy ban kiểm tra đảng ủy khối các cơ quan tỉnh); trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Trọng G, sinh năm 1957 và bà Nông Thị H, sinh năm 1955; vợ: Vi Thị K, sinh năm 1978 (đã ly hôn); con: 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh 2013; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/4/2019 cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Anh Trần Trọng M, sinh năm 1995. Nơi cư trú: Tổ *, khối *, thị trấn N, huyện Q, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Hữu P, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Số 82, đường X, phường S, thành phố Y. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Khúc Mạnh V. Vắng mặt.

2. Anh Nông Minh T1. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nông Quốc T đầu tư tài chính trên trang web "BINOMO" bị thua lỗ khoảng 03 tỷ đồng. Do muốn tìm cách trả nợ nên Nông Quốc T nhờ bạn là Khúc Mạnh V giúp đỡ. Ngày 01/02/2019, anh Trần Trọng M đăng lên mạng xã hội Facebook về việc cho thuê xe ôtô hiệu Toyota Inova, màu xám bạc, biển kiểm soát 12A-064.41. Khúc Mạnh V khi đọc được thông tin trên đã gọi điện thoại cho anh Trần Trọng M để đặt vấn đề thuê xe. Ngày 02/2/2019 Trần Trọng M điều khiển xe ôtô BKS 12A-064.41 đến gặp Khúc Mạnh V, Khúc Mạnh V nói đã thuê được xe và giới thiệu bạn của Khúc Mạnh V là Nông Quốc T đang có nhu cầu thuê xe. Khúc Mạnh V lên xe Trần Trọng M, cùng đi đến chỗ ở của Nông Quốc T tại 18/01 đường H1. Tại đây, Nông Quốc T làm hợp đồng thuê xe ôtô, kèm theo giấy tờ xe của anh Trần Trọng M trong thời gian 10 ngày (từ ngày 02/02/2019 đến ngày 12/02/2019) với giá 1.200.000đồng/ ngày, đặt cọc trước 2.000.000 đồng.

Ngày 03/02/2019, Khúc Mạnh V bảo Nông Minh T1 điều khiển xe ôtô Inova BKS 12A-064.41 chở Nông Quốc T xuống thành phố Y để vay tiền cho Nông Quốc T. Khi xuống đến thành phố Y, Khúc Mạnh V báo với Nông Quốc T là không vay được. Khúc Mạnh V giới thiệu Nông Quốc T đến nhà của Nguyễn Hữu P để vay tiền nhưng không vay được. Theo sự giới thiệu của Khúc Mạnh V, Nông Quốc T đã mang chiếc xe ô tô nhãn hiệu Inova BKS 12A - 064.41 đến cầm cố dưới hình thức làm thủ tục bán xe để lại thẻ Đảng viên mang tên Nông Quốc T với Nguyễn Hữu P lấy số tiền 250.000.000 đồng.

Sau khi nhận được tiền, Nông Quốc T đem đặt cọc 8.000.000 đồng với Đoàn Ngọc Hải để thuê xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios màu bạc, BKS 12A-096.55; cho Nông Minh T1 vay 5.000.000 đồng và trả tiền công lái xe ngày 03/02/2019 cho Nông Minh T1 1.000.000 đồng; trả anh Nguyễn Đình L1 18.000.000 đồng tiền thuê xe ôtô nhãn hiệu Toyota Fotuner BKS 12A-084.83; trả cho Chu Quốc T2 159.000.000 đồng tiền cầm cố xe ôtô hiệu Toyota Fotuner BKS 12A-084.83 và trả giúp Khúc Mạnh V 10.000.000 đồng tiền Khúc Mạnh V nợ Chu Quốc T2; số tiền 48.000.000 đồng còn lại, Nông Quốc T đã sử dụng mục đích cá nhân hết.

Tại Biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số 55/ĐGTSTT, ngày 29/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn, xác định xe ôtô hiệu Toyota Inova, biển kiểm soát 12A-064.41 trị giá 326.830.000đ (ba trăm hai mươi sáu triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 123/CT-VKS ngày 18 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Quốc T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nông Quốc T thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Cáo trạng đã truy tố: Ngày 02/02/2019 bị cáo làm hợp đồng thuê xe ôtô biển kiểm soát 12A-064.41 của anh Trần Trọng M trong thời gian 10 ngày (từ ngày 02/02/2019 đến ngày 12/02/2019) với giá 1.200.000 đồng/ngày, đặt cọc trước 2.000.000đồng. Sau đó, bị cáo cầm cố chiếc xe với Nguyễn Hữu P được số tiền 250.000.000 đồng, đem trả nợ và chi tiêu cá nhân hết. Bị cáo nhất trí bồi thường thiệt hại giá trị tài sản chiếc ô tô theo giá của Hội đồng định giá cho bị hại anh Trần Trọng M số tiền là 326.830.000đ (ba trăm hai mươi sáu triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng).

Bị hại anh Trần Trọng M vắng mặt tại phiên tòa, tại biên bản lấy lời khai tại cơ quan điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Trọng M trình bày: Ngày 01/02/2019 sau khi đăng lên mạng xã hội Facebook về việc cho thuê xe ôtô, biết thông tin anh có xe ô tô cho thuê, Khúc Mạnh V liên lạc đặt vấn đề thuê xe ô tô của anh. Ngày 02/02/2019 Khúc Mạnh V giới thiệu Nông Quốc T là bạn Dũng đang có nhu cầu thuê xe ô tô; Dũng cùng anh đến chỗ ở của Nông Quốc T tại 18/01 đường H1. Tại nhà Nông Quốc T, hai bên làm hợp đồng thuê xe ôtô, kèm theo giao giấy tờ xe của anh trong thời gian 10 ngày (từ ngày 02/02/2019 đến ngày 12/02/2019) với giá 1.200.000 đồng/ngày, đặt cọc trước 2.000.000đồng. Hết hạn hợp đồng, Nông Quốc T tiếp tục đặt vấn đề thuê xe, do tin tưởng anh cho Nông Quốc T thuê thêm từ ngày 23/02/2019 đến ngày 03/3/2019. Sau đó không thấy Nông Quốc T trả xe ôtô cho anh, anh trình báo sự việc lên cơ quan công an. Chiếc xe ô tô Nông Quốc T thuê, Nông Quốc T đã đem cầm cố cho người khác, hiện không tìm thấy, anh yêu cầu Nông Quốc T phải bồi thường cho anh giá trị chiếc xe số tiền là 330.000.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, anh Nguyễn Hữu P trình bày: Anh làm nghề cho thuê xe ô tự lái và kinh doanh mua bán ô tô từ năm 2009 đến nay. Sáng 03/02/2019 có anh V gọi điện thoại giới thiệu Nông Quốc T đến gặp anh và khi đến gặp Nông Quốc T nói là có chiếc xe đứng tên vợ, đang xây nhà cần tiền cho thợ về quê ăn tết, Nông Quốc T đã cầm cố với anh chiếc ôtô hiệu Toyota Inova, biển kiểm soát 12A - 064.41 để vay số tiền 250.000.000đ (hai trăm năm mươi triệu đồng). Khi viết giấy là giấy đặt cọc bán xe, phòng nếu Nông Quốc T không quay lại lấy thì anh có cơ sở thanh lý xe lấy lại tiền, Tuấn đồng ý viết và đồng thời để lại một thẻ đảng viên ở chỗ anh để làm tin, kèm giấy đăng ký xe ô tô đứng tên đăng ký Lê Thu Y1, đăng kiểm, bảo hiểm cùng chìa khóa cho anh. Đến hẹn Nông Quốc T không trả tiền, không lấy xe, do cần tiền nên anh đã bán chiếc xe cho một người tên Long (không rõ họ tên địa chỉ cụ thể), hiện anh không biết chiếc xe trên ở đâu.

Tại phiên tòa đại điện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nông Quốc T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Áp dụng khoản 3 Điều 175; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nông Quốc T từ 07 năm đến 08 năm tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về dân sự: Bị cáo Nông Quốc T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại anh Trần Trọng M số tiền là 326.830.000đ (ba trăm hai mươi sáu triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng).

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 (một) thẻ Đảng viên; 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Nông Quốc T và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với biên bản định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 02/02/2019, bị cáo Nông Quốc T làm hợp đồng thuê tài sản là xe ô tô Inova BKS:12A-064.41 của anh Trần Trọng M, đến ngày 03/02/2019 khi có tài sản trong tay và do cần tiền để trả nợ Nông Quốc T đã đem chiếc xe cầm cố lấy tiền tiêu sài. Hành vi thuê tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, tạo niềm tin cho bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản là chiếc xe ô tô BKS: 12A-064.41 trị giá 326.830.000 đồng của bị cáo, có căn cứ xác định bị cáo phạm tội"Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Nông Quốc T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mật trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo trước khi phạm tội là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, là người có trình độ văn hóa cao, am hiểu pháp luật, bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan Điều tra và cũng như tại phiên tòa bị cáo Nông Quốc T đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bản thân bị cáo trong quá trình công tác được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Bộ trưởng Bộ Văn hóa thể thao và du lịch tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[4] Về bồi thường dân sự: Do chiếc xe ôtô Inova BKS 12A-064.41, Nguyễn Hữu P đã bán cho một đối tượng tên L1 (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) được 250.000.000đ, cơ quan điều tra không thu hồi được. Bị hại anh Trần Trọng M yêu cầu bị cáo bồi thường cho anh giá trị chiếc xe số tiền là 330.000.000 đồng; theo biên bản định giá của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự trị giá chiếc xe ô tô có giá trị là 326.830.000đ (ba trăm hai mươi sáu triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng). Tại phiên tòa bị cáo nhất trí bồi thường chiếc xe ô tô theo giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, vì vậy bị cáo Nông Quốc T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại giá trị tài sản chiếc ô tô cho bị hại anh Trần Trọng M số tiền là 326.830.000đ (ba trăm hai mươi sáu triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng).

[5] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, nhân thân, bồi thường dân sự, hướng xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xem xét khi quyết định.

[6] Về hình phạt chính: Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, hậu quả thiệt hại gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo. Xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian tập trung cải tạo và trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 10/4/2019 của Công an xã B, thành phố L thể hiện bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với 01 (một) thẻ Đảng viên; 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Nông Quốc T và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime không liên quan đến hành vi phạm tội, trả lại cho bị cáo.

[9] Quá trình điều tra xác định, khoảng cuối tháng 01/2019 Nông Quốc T thuê với Nguyễn Đình L1 (sinh năm 1972, trú tại số 35, phố Cửa Đông, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn) chiếc xe ôtô Fortuner, BKS 12A - 084.83 rồi đem cầm cố chiếc xe với Chu Quốc T2 (sinh năm 1989, trú tại khu Vườn Sái, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn) được 350.000.000đ. Ngày 03/2/2019, khi từ thành phố Y về thành phố L, Nông Quốc T cùng Nông Minh T1 sang nhà Đoàn Ngọc H3 (sinh năm 1989, trú tại số 72 đường Phai Luông, phường C2, thành phố L) đặt cọc 8.000.000đ với H3 để thuê xe ôtô Vios màu bạc, BKS 12A-096.65. Sau đó, Nông Quốc T tiếp tục đem cầm cố chiếc xe ôtô Vios màu bạc, BKS 12A-096.65 với Chu Quốc T2 để lấy chiếc xe ôtô Fortuner, BKS 12A - 084.83 ra, T trả cho T2 159.000.000đ tiền cầm cố chiếc xe Fortuner; T trả xe ôtô và thanh toán 18.000.000đ tiền thuê xe ôtô cho anh Nguyễn Đình L1; cho Nông Minh T1 vay 5.000.000đ trả tiền công lái xe ngày 03/02/2019 cho Nông Minh T1 1.000.000đ và trả giúp Khúc Mạnh V 10.000.000đ tiền Dũng nợ Tuân; số tiền còn lại, Nông Quốc T khai sử dụng mục đích cá nhân hết. Đến ngày 23/02/2019, Nông Quốc T tiếp tục đến thuê chiếc xe ôtô Fortuner, BKS 12A-084.83 với Nguyễn Đình L1 rồi đem xe cầm cố với Chu Quốc T2 để chuộc lấy xe ôtô nhãn hiệu Vios, BKS 12A-096.55 để trả cho Đoàn Ngọc H3 và vay thêm Tuân 150.000.000 đồng. Sau đó, anh Nguyễn Đình L1 đã tự thỏa thuận với Chu Quốc T2 để chuộc chiếc ôtô Fotuner về. Nông Quốc T đã trả được 40.000.000đ cho Chu Quốc T2. Chu Quốc T2 yêu cầu Nông Quốc T trả thêm 310.000.000đ. Đối với khoản nợ 310.000.000 đồng giữa Nông Quốc T và Chu Quốc T2, quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác định không có dấu hiệu hình sự, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Đối với Khúc Mạnh V là người giới thiệu để Nông Quốc T thuê chiếc xe ôtô nhãn hiệu Inova, BKS 12A-064.41 với Trần Trọng M và giới thiệu Nông Quốc T với Nguyễn Hữu P. Quá trình điều tra không đủ căn cứ để xác định Khúc Mạnh V là đồng phạm với Nông Quốc T trong việc chiếm đoạt chiếc xe ôtô BKS 12A-064.4, tại phiên tòa bị cáo cũng xác nhận Khúc Mạnh V không được hưởng lợi gì, do đó không có căn cứ để xử lý.

[11] Đối với Nguyễn Hữu P nhận cầm cố chiếc xe ôtô nhãn hiệu Inova, BKS 12A-064.41 cho Nông Quốc T vay tiền, kết quả điều tra xác định giữa Nguyễn Hữu P và Nông Quốc T không thỏa thuận tiền lãi vay, Nguyễn Hữu P không biết chiếc xe do Nông Quốc T phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[12] Đối với Nông Minh T1 ngày 03/2/2019 cùng Nông Quốc T điều khiển chiếc xe ôtô Inova BKS 12A-064.41 xuống thành phố Y, quá trình điều tra xác định Nông Minh T1 không biết chiếc xe do phạm tội mà có, quá trình Nông Quốc T làm hợp đồng với Nguyễn Hữu P, Nông Minh T1 không biết nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

[13] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[14] Bị cáo là người bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 175; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 23; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Quốc T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nông Quốc T 06 (sáu) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/4/2019.

3. Trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nông Quốc T phải có trách bồi thường cho anh Trần Trọng M số tiền là 326.830.000đ (ba trăm hai mươi sáu triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm trả thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 (một) chứng minh thư nhân dân, 01 (một) thẻ Đảng viên số 12039156 đều mang tên Nông Quốc T và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/07/2019)

5. Về án phí: Bị cáo Nông Quốc T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 16.341.500đ (mười sáu triệu ba trăm bốn mươi mốt triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch; tổng cộng 16.541.000đ (mười sáu triệu năm trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) để nộp ngân sách Nhà Nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:130/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về