Bản án 129/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 129/2021/HS-PT NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 08 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 118/2020/TLPT-HS ngày 09/12/2020 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 703/2021/QĐXXPT-HS ngày 23/02/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với:

Bị cáo: TRẦN THẾ B, sinh ngày 09/9/1989 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 30, phường T, quận T1, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch:

Việt Nam; Tôn giáo: Không; Cha là Trần Ngọc B1 (s) và mẹ là Huỳnh Thị B2 (s); Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Đồng Thị Kim H (sinh 1990, chưa đăng ký kết hôn) và có một con chung (sinh 2019); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/9/2019 bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Nam khởi tố bị can về tội “Tổ chức đánh bạc” và bắt tạm giam ngày 23/6/2020 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 21/PC02 ngày 05/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Nam. Bị cáo được trích xuất từ trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Nguyễn Huy T3, sinh năm 1988; Trú tại: tố 37, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, vắng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 03/6/2019, Nguyễn Huy T3 trên đường đi làm về thì nhận được điện thoại của anh Nguyễn Tuấn A rủ T3 đến địa chỉ: K8I4A/12 Đường Tr, quận T1, thành phố Đà Nẵng để ăn nhậu thì T3 đồng ý và T3 có rủ thêm anh Nguyễn Tường V và vợ anh V là chị Nguyễn Thị Thúy D (trú tại tổ 41, phường T2, quận T1, thành phố Đà Nẵng) cùng đến ăn nhậu. Khi anh Nguyễn Huy T3 và vợ chồng anh V đến nhà số K814A/12 Đường Tr thì thấy anh Nguyễn Tuấn A, anh Nguyễn Văn H1 và TRẦN THẾ B (là cháu của anh H1) đang ăn nhậu. Trong lúc ăn cùng ăn nhậu thì B rủ T3 cùng đi đánh nhau nhưng T3 không đồng ý nên giữa B và T3 xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Do B khiêu khích nên T3 cầm ly bia đang uống ném vào đầu B gây thương tích. B xông tới đánh nhau với T3, cả hai cùng vật lộn nhau dưới vỉa hè và được anh Tuấn A can ngăn nhưng sau đó, B và T3 lại tiếp tục xông vào đánh nhau. B cầm 01 con dao Thái Lan dùng gọt trái cây có sẵn trên bàn bằng tay phải thì anh Tuấn A đứng sau B dùng hai tay ôm phần vai của B lại nhưng B vùng mạnh làm tay anh Tuấn A tuột ra. B cầm dao theo hướng mũi dao hướng lên trên đâm 01 nhát trúng vào phần bụng phía bên trái của T3 gây thương tích. Sau đó, cả T3 và B được mọi người can ngăn, đưa đến bệnh viện cấp cứu, B vứt dao tại khu vực trước cổng nhà anh H1, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được dao.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 195/TgT ngày 08/7/2019, Trung tâm Pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận Nguyễn Huy T3 bị vết thương thấu bụng, Phòi mạc nối lớn ra ngoài, thủng hồng tràng 06 lỗ, thủng mạc treo nhiều lỗ, chảy máu ổ bụng, đã điều trị phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột hồng tràng 15cm, nối và khâu lại các lỗ thủng mạc treo, đặt dẫn lưu, đóng ổ bụng. Hiện vết thương và vết mổ đang lành tạo sẹo, bụng không chướng, đường tiêu hoá thông, siêu âm bụng kiểm tra không phát hiện bất thường, Tổn thương trên phù hợp với vật sắt nhọn gây nên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 52%, tổn thương do ngoại lực tác động trực tiếp, vật tác động phù hợp với vật sắc nhọn gây ra.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 280/TgT ngày 15/7/2019, Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận tỷ lệ thương tích của TRẦN THẾ B là 6%.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2020/HS-ST ngày 03/11/2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:

1. Tuyên bố Bị cáo TRẦN THẾ B phạm tội “Giết người” 2. Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo TRẦN THẾ B 05 (năm) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo TRẦN THẾ B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm - Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo B kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử nặng, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo B giữ nguyên kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 năm tù là nặng vì xuất phát tự việc người bị hại (Nguyễn Huy T3) cầm ly bia ném vào đầu bị cáo chảy máu gây thương tích 6%, sau đó lại lao vào vật lộn, đánh nhau với bị cáo nên bị cáo không kìm chế được vớ lấy con dao Thái Lan dùng gọt hoa quả để trên bàn chống cự lại nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét tình tiết này cho bị cáo. Sau khi phạm tội bị cáo đã động viên gia đình giao ngay cho người bị hại 100 triệu đồng là vượt quá số tiền thiệt hại của người bị hại nên người bị hại không kháng cáo.

- Tại phiên tòa cha bị cáo B trình bày nhận thấy trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ với việc con mình đã gây ra nên Ông Bà đã giao ngay cho người bị hại 100 triệu đồng là vượt số tiền thiệt hại của người bị hại nên anh T3 không yêu cầu Tòa án xem xét bồi thường thêm và không kháng cáo về hình sự. Sau đó, Ông Bà thường xuyên qua thăm hỏi, hiện nay anh T3 đã khỏe mạnh bình thường và đã đi làm phụ hồ nên mong Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm hình phạt cho con của Ông Bà để sớm trở về nuôi nhỏ hơn 1 tuổi hiện đang do Ông Bà nuôi dưỡng, chăm sóc.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Thẩm phán, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 05 năm tù là thỏa đáng, đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tội danh, khung hình phạt: Khoảng 22 giờ ngày 03/6/2019, trong lúc ăn nhậu tại K814A/12 Đường Tr, quận T1, thành phố Đà Nẵng cùng với anh Nguyễn Tuấn A, anh Nguyễn Văn H1, anh Nguyễn Tường V cùng vợ anh V là chị Nguyễn Thị Thúy D thì giữa Nguyễn Huy T3 và TRẦN THẾ B xảy ra mâu thuẫn, cãi và nhau. Do bị B khiêu khích nên T3 cầm ly bia đang uống ném vào đầu B gây thương tích 6%, do đó, B xông vào đánh nhau với T3, được anh Tuấn A can ngăn nhưng B và T3 vẫn tiếp tục xông vào đánh nhau, B lấy 01 con dao Thái Lan dùng để gọt trái cây có sẵn trên bàn cầm bên tay phải, mũi dao hướng lên trên đâm 01 nhát trúng vào phần bụng phía bên trái của T3 gây thương tích, sau đó, cả T3 và B được mọi người đưa đên bệnh viện cấp cứu. Tỷ lệ thương tích của T3 là 52%, vết thương thấu bụng: Phòi mạc nổi lớn ra ngoài, thủng hồng tràng 06 lỗ, thủng mạc treo nhiều lỗ, chảy máu ổ bụng, đã được điều trị phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột hỗng tràng 15cm, nối và khâu lại các lỗ thủng mạc treo, đặt dẫn lưu, đóng ổ bụng. Bị cáo B thừa nhận do xuất phát từ mâu thuẫn khi ăn nhậu cùng nhau, nhưng vì không tự kìm chế được bản thân nên bị cáo đã dùng dao Thái Lan (dao dùng gọt hoa quả để sẵn trên bàn) đâm vào vùng bụng trái của anh T3. Hành vi phạm tội của bị cáo B có khả năng dẫn đến chết người, việc anh T3 không chết là do được cấp cứu kịp thời, do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo B phạm vào tội “Giết người” với tội dung, khung hình phạt qui định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015 là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và lượng hình, cấp phúc thẩm thấy:

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[3] Về tình tiết giảm nặng trách nhiệm hình sự:

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét sau khi phạm tội, bị cáo B đã tác động gia đình bồi thường ngay cho người bị hại 100.000.000 đồng; bị cáo B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đang nuôi con nhỏ sinh năm 2019 nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và do người bị hại không chết nên áp dụng quy định tại các Điều 15, 57 về trường hợp “phạm tội chưa đạt” và áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự (khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới khung 2 Điều 123 Bộ luật hình sự) là có cơ sở, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, xét bị cáo B và anh T3 cùng ngồi ăn nhậu vui vẻ với nhau nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt không tự kìm chế được bản thân mà khởi đầu T3 đã dùng ly bia đang uống ném thẳng vào đầu bị cáo B gây chảy máu thương tích ở đầu cho bị cáo B (theo kết luận giám định pháp y sau này) thương tích đến 6% làm cho bị cáo B bức xúc không kìm chế được bản thân lao vào đánh nhau và vớ lấy con dao Thái Lan dùng gọt hoa quả để sẵn trên bàn đâm vào vùng bụng T3. Vì vậy, cấp phúc thẩm xét cần áp dụng cho bị cáo B tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo khi quyết định hình phạt là thiếu tình tiết giảm nhẹ.

[4] Về lượng hình:

Tòa án cấp sơ thẩm khi quyết định hình phạt đã áp dụng thiếu tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo lẽ ra được hưởng. Mặt khác, xét thực tế ngay sau khi phạm tội bị cáo B đã tác động gia đình bồi thường ngay cho người bị hại số tiền 100.000.000 đồng là thỏa đáng nên người bị hại không còn yêu cầu Tòa án xem xét buộc bị cáo bồi thường thêm và mặc dù Tòa án cấp phúc thẩm có triệu tập nhưng anh T3 không đến phiên tòa phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, cha mẹ bị cáo B trình bày vì nhận thấy trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ với việc con mình đã gây ra nên Ông Bà đã giao ngay cho người bị hại 100 triệu đồng, vượt số tiền người bị hại bị thiệt hại nên người bị hại không còn bức xúc và tiếp theo Ông Bà thường xuyên qua thăm hỏi và hiện nay anh T3 đã khỏe mạnh bình thường, đã đi làm phụ hồ nên mong cấp phúc thẩm xem xét giảm hình phạt cho con của Ông Bà để sớm trở về nuôi nhỏ hơn 1 tuổi hiện đang do Ông Bà nuôi dưỡng, chăm sóc. Vì các lý do trên, cấp phúc thẩm xét cần giảm cho bị cáo B 01 phần hình phạt. Bị cáo B kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Từ nhận định tại các mục trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa bản án sơ thẩm hình sự sơ thẩm số 57/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, cụ thể:

Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo TRẦN THẾ B 04 (bốn) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo TRẦN THẾ B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về tội giết người

Số hiệu:129/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về