TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 129/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 11 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 259/2018/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: ấp H 2, thị trấn Đ, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; tạm trú: Phòng trọ số A, nhà trọ Đ, tổ B, khu phố 5, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Trần Văn S, sinh năm 1988; địa chỉ cư trú: ấp A, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 27/02/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy L trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Trần Văn S quen nhau được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 21/02/2011 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh S không lo làm ăn và không quan tâm đến gia đình, từ đó chung sống không có hạnh phúc nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2017 đến nay.
Về con chung: Chị và anh S có một con chung là cháu Trần Như Quỳnh, sinh ngày24/5/2011. Hiện tại chị đang nuôi dạy cháu Quỳnh.
Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh S được ly hôn; về con chung chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu Quỳnh, chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung là không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đúng với quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của chị L yêu cầu ly hôn với anh S, về con chung giao cháu Quỳnh cho chị L nuôi dạy, chị L không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con nên không xét, về tài sản chung không ai yêu cầu giải quyết nên không xét, về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị L phải chịu 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục: Tòa án đã triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh S vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị L và anh S.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thùy L và anh Trần Văn S được xác lập hợp pháp, thể hiện là anh chị tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 21/02/2011 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Trong quá trình chung sống giữa chị L và anh S có xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chung sống không có hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân như lời trình bày của chị L là thực tế có xảy ra. Điều này phù hợp với biên bản xác minh của Tòa án về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân của anh chị. Kể từ khi anh chị xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân đến nay với thời gian dài mà không thể hàn gắn được. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhiều lần tiến hành hòa giải để anh chị hàn gắn nhưng không có kết quả, do anh S không tham gia hòa giải và không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về yêu cầu ly hôn của chị L. Điều đó chứng tỏ mối quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên giải quyết cho anh chị ly hôn là phù hợp với thực tế. Vì vậy, chị L khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh S là có cơ sở chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị L và anh S có một con chung là cháu Trần Như Quỳnh, sinh ngày 24/5/2011. Cháu Quỳnh hiện chưa thành niên, kể từ khi sống ly thân đến nay chị L trực tiếp nuôi dạy cháu vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, cuộc sống của cháu đã ổn định, cháu Quỳnh hiện nay đã trên 07 tuổi cháu có nguyện vọng được chung sống với chị L, việc chị L yêu cầu được nuôi cháu Quỳnh và anh S không có ý kiến phản đối, do đó giao cháu Quỳnh cho chị L tiếp tục nuôi dạy là phù hợp. Chị L không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét. Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu Quỳnh mà không ai được cản trở.
[4] Về tài sản: Chị L xác định giữa chị và anh S không có tài sản chung và nợchung, các đương sự không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Chị L chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng. Ngày 08/3/2018, chị L nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương được chuyển thu án phí. Anh S không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thùy L yêu cầu ly hôn với anh Trần Văn S.
Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thùy L và anh Trần Văn S.
Về con chung: Giao cháu Trần Như Quỳnh, sinh ngày 24/5/2011 cho chị Nguyễn Thị Thùy L tiếp tục nuôi dạy. Anh Trần Văn S có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu Trần Như Quỳnh mà không ai được cản trở.
Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị L phải chịu 300.000 đồng. Ngày 08/3/2018, chị L nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013746 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương được chuyển thu án phí.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị Nguyễn Thị Thùy L và anh Trần Văn S vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 129/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 129/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về