TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 128/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 123/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2020/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức M; tên gọi khác: M Bắc Kỳ; sinh ngày 09 tháng 3 năm 1998; tại: Nghệ An; giới tính: Nam; NĐKNKTT và cư trú: Tổ X, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Đức Th và bà Hồ Thị Ng; vợ, con: Chưa có; Tiền án: Ngày 22/03/2018, bị TAND TP. B xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 14/2018/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/10/2019 nên chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; nhân thân:
Ngày 18/06/2015, M bị TAND TP. B xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 44/2015/HSST;
Ngày 28/01/2016, M bị TAND TP. B xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt với bản án trước buộc phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 12 tháng tù, theo Bản án số 09/2016/HSST. Tại thời điểm bị kết án bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi, căn cứ khoản 1 điều 107 BLTTHS thì bị can được coi là không có án tích.
Ngày 16/07/2015, M bị Công an xã L, TP. B xử phạt 375.000 đồng về hành vi Đánh nhau theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1819/XP-VPHC;
Ngày 09/01/2018, M bị Công an huyện B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 05/QĐ-XPVPHC. Hiện nay thời hạn thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã hết. Căn cứ điều 7, điều 73, điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính thì trường hợp nêu trên của bị cáo không được coi là còn tiền sự; bị tạm giam từ ngày 13/08/2020 đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 25 phút ngày 13/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an TP. B phối hợp với Công an phường L, TP. B kiểm tra nhà của chị Trần Thị Thu H, tại địa chỉ Số M đường N, phường L, TP. B phát hiện chị H đang ở nhà cùng với Nguyễn Đức M và Trần Quốc T. Cơ quan điều tra phát hiện Nguyễn Đức M đang tàng trữ trong túi quần tây màu đen, phía trước, bên phải M đang mặc có 01 gói nilon kích thước (04 x 7,5) cm có rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu đỏ, bên trong đựng 01 gói nilon kích thước (02 x 02)cm có rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu đỏ và 02 gói nilon kích thước (01 x 03)cm được hàn kín đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Nguyễn Đức M khai nhận các gói nilon này đều chứa ma túy là của M tàng trữ để sử dụng. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Đức M và lập biên bản thu giữ, niêm phong các gói nilon nêu trên và tạm giữ 01 CMND mang tên Nguyễn Đức M.
Theo kết luận giám định số 1470 ngày 17/08/2020 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong 03 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4375g, loại Methamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 132/CT-VKSBL, ngày 28 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo M từ 24 đến 30 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong số 1470/2020/PC09; trả lại cho bị cáo 01 Chứng minh nhân dân tên Nguyễn Đức M;
buộc bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo M khai nhận, đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nêu, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì về nội dung Cáo trạng, thấy đúng với tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố B; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; tại phiên tòa bị cáo không thắc mắc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật.
[2] Về căn cứ xác định tội: Nguyễn Đức M đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,4375 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Đối chiếu lời khai của bị cáo, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.
[3] Về tính chất mức độ, hậu quả hành của vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố B. Vì vậy, cần áp dụng cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu; phạm tội khi chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[5] Đối với người đàn ông tên “L” bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên đã tách ra xử lý sau. Đối với Trần Quốc T và Trần Thị Thu H không biết việc bị cáo M tàng trữ trái phép chất ma túy nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
[6] Về xử lý vật chứng: 02 phong bì niêm phong số 1470/2020/PC09 xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[8] Về án phí: Buộc bị cáo M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố, bị cáo Nguyễn Đức M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điển h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức M 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong số 1470/2020/PC09 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B với Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).
Trả lại cho bị cáo M 01 Chứng minh nhân dân tên Nguyễn Đức M hiện đang kèm theo hồ sơ vụ án.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo M phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 128/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 128/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về