Bản án 127/2019/HSST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 127/2019/HSST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2019/HSST, ngày 13-9-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2019/QĐXXST-HS ngày 25-9-2019 đối với bị cáo:

1. Quàng Văn L; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 1994; tại xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Quàng Văn M (đã chết) và bà Quàng Thị T, sinh năm: 1974; bị cáo có vợ là: Lù Thị L, sinh năm 1994 và 01 con nhỏ 06 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 16-6-2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Văn P; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 1975; tại xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lò Văn K (đã chết) và bà Lò Thị B, sinh năm: 1934; bị cáo có vợ là: Lò Thị B1, sinh năm 1975 và 02 con lớn 24 tuổi nhỏ 21 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 16-6- 2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 16-6-2019, Tổ công tác Đội cảnh sát hình sự Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Quàng Văn L, trú tại: Bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Lò Văn P, trú tại: Bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa một ít chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (L và P khai là Heroine), có khối lượng 0,23 gam và 01 ( một) viên nén hình trụ màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (L và P khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,10 gam. Rút toàn bộ 0,23 gam chất bột màu trắng ký hiệu L1 và toàn bộ 0,10 gam 01 viên nén hình trụ màu hồng ký hiệu L2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Quá trình điều tra Lò Văn P khai nguồn gốc số ma túy Công an thu giữ Lò Văn P mua của Lò Thị D; trú tại: Bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 16-6-2019. Ngày 17-6-2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật, thư tín của Lò Thị D. Kết quả khám xét phát hiện và thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong chữa bột cục màu trắng nghi là Heroine. Có khối lượng 0,08 gam, rút toàn bộ 0,08gam ký hiệu D1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số: 1116/KLMT, ngày 20-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,23 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu L2 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,23 gam loại Heroine và 0,10 gam loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại bản Kết luận giám định số: 1114/KLMT, ngày 19-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 không phải là ma túy, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam. Tổng khối lượng vật chứng thu giữ là 0,08 gam”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 16-6-2019, Quàng Văn L đi bộ từ nhà ở bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La sang bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Lương gặp Lò Văn P đang đứng chơi ở ven đường, L bảo P đi mua 01 viên hồng phiến và một ít Heroine với giá 300.000đ, sau khi mua được ma túy sẽ cùng P sử dụng. P đồng ý cầm tiền L đưa và bảo L đứng đợi ở ven đường rồi P đi bộ một mình đến nhà Lò Thị D, trú tại bản Li, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La hỏi và mua được 01 (một) gói ma túy bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng và 01 ( một) viên hồng phiến với giá là 300.000 đ.

Sau khi mua được ma túy P cầm gói ma túy bên tay phải rồi đi bộ quay lại bên chỗ L đang đứng đợi rồi đưa gói ma túy cho L. Khi L vừa nhận gói ma túy từ Phái thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La bắt quả tang Quàng Văn L và Lò Văn P có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 125/CT-VKS, ngày 12-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Quàng Văn L mức án từ 20 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16-6-2019.

Xử phạt bị cáo Lò Văn P mức án từ 20 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16-6-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P.

Ý kiến của các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Và không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 16-6-2019, Quàng Văn ; trú tại: Bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Lò Văn P; trú tại: Bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,23 gam, Heroine và 0,10 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy hai bị cáo tàng trữ là 0,33gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)………….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...............................

i) Có 2 chất ma túy chở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ b đến h khoản này.”

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của các bị cáo: Bị cáo Quàng Văn L là người khởi xướng, đưa tiền cho bị cáo Lò Văn P đi mua ma túy. Bị cáo Lò Văn P là người trực tiếp đi mua ma túy, các bị cáo cùng tích cực thực hiện tội phạm. Vài trò của các bị cáo là ngang nhau. Do vậy cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.

Song nhân thân bị cáo Lò Văn P đã có 01 (một) tiền án và 01 (một) tiền sự, đã được đương nhiên xóa án tích. Nhân thân bị cáo Quàng Văn L có một tiền sự, chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, do vậy nhân thân các bị cáo đều là nhân thân xấu. Các bị cáo đều là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy các bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đối với Lò Thị D, trú tại bản L, xã Tm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Lò Văn P là người đã bán ma túy cho Phái vào ngày 16-6-2019 với giá 300.000đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã nhiều lần triệu tập Lò Thị D đến Công an huyện Thuận Châu để làm rõ có hay không việc Diên bán ma túy cho P vào ngày 16-6-2019. Tuy nhiên hiện nay D không có mặt tại địa phương, chính quyền địa phương không biết D đi đâu và làm gì. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La sẽ tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ, nếu đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01 (một) phong bì niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn L cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 16-6-2019, một mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Thu giữ của các bị cáo Quàng Văn L, Lò Văn P. Và 01 (một) phong bì niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho khám xét chỗ ở, đồ vật, thư tín của Lò Thị Diên bắt ngày 17-6-2019”, một mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Thu giữ tại nhà Lò Thị D xét không còn giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Các bị cáo Quàng Văn L, Lò Văn P phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Quàng Văn L 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16-6-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

Xử phạt bị cáo Lò Văn P 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16-6-2019 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiêu hủy - Một phong bì niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn L cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 16-6-2019, mặt sau phong bì có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu. Một mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

- Một phong bì niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho khám xét chỗ ở, đồ vật, thư tín của Lò Thị D bắt ngày 17-6-2019”, mặt sau phong bì có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu. Một mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

4. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo Quàng Văn L và Lò Văn P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2019/HSST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:127/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về