Bản án 127/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 127/2019/HS-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 127/2019/TLST-HS ngày 10/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐXXST-HS ngày 25/9/2019 đối với bị cáo:

Lê Hồng S, sinh năm 1987 tại tỉnh Hà Nam; nơi đăng ký NKTT; chỗ ở: Thôn 1, xã P, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Lê Thị V; vợ, con: chưa có;

Nhân thân: Ngày 07/3/2012, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Nam xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/10/2014.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/5/2019 đến ngày 01/6/2019 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Hoàng Xuân T, sinh năm 1977; Địa chỉ: Xóm 9, thôn P, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

2/ Bà Lê Thị V, sinh năm 1965; Địa chỉ: Thôn 1, xã P, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Trần Xuân M. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 23/5/2019, Lê Hồng S đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Hoàng Xuân T gọi điện vào số máy 0943.628.313 của S hỏi mua ma túy đá với giá 500.000đ, S đồng ý và hẹn T đến cổng trường đại học Công nghiệp Hà Nội cơ sở Hà Nam. Sau đó S lấy chiếc lọ nhựa màu xanh ở lỗ cáo trên gác xép lấy ra 01 túi ma túy đá được gói bằng túi nilon màu trắng hàn kín, miệng túi có kẹp nhựa viền màu xanh và gói vào trong tờ lịch rồi bỏ vào trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô BKS: 29V7-5846 đi ra khu vực cổng trường đại học Công nghiệp Hà Nội thuộc tổ 4, phường L, thành phố Phủ Lý gặp T. Tại đây T đưa cho S số tiền 500.000đ, S cầm tiền T đưa cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi lấy vỏ bao thuốc lá 555 định đưa cho T nhưng chưa kịp đưa thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Hà Nam phối hợp với Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý yêu cầu kiểm tra. Thấy lực lượng Công an, S sợ hãi thả bao thuốc lá nhãn hiệu 555 bên trong có túi ma túy xuống đường ngay chỗ S đứng.

Tại chỗ S khai nhận đó là túi ma túy dạng đá S mang đi để bán cho T nhưng chưa kịp đưa thì bị phát hiện, bắt giữ. Lực lượng Công an đã đưa Lê Hồng S, Hoàng Xuân T về trụ sở phường Lê Hồng Phong lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình bắt quả tang, thu giữ vật chứng, tài sản gồm: 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 bên trong có 01 gói giấy in có chữ, bên trong gói giấy có 01 túi nilon miệng túi có kẹp nhựa viền màu xanh hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Sam sung vỏ màu đen niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02; số tiền 500.000đ niêm phong trong phong bì ký hiệu QT03 và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen – bạc, BKS: 29V-5846.

Ngày 23/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Lê Hồng S tại thôn 1, xã P, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét thu giữ đồ vật, tài liệu gồm: Thu tại lỗ cáo trên gác xép phòng ngủ của S 01 lọ nhựa màu xanh, nhãn hiệu DOUBLMINT bên trong có 07 túi nilon màu trắng miệng túi đều có kẹp nhựa màu trắng viền màu xanh, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng và 09 gói giấy lịch, bên trong mỗi gói đều chứa 01 túi nilon màu trắng, miệng túi có kẹp nhựa màu trắng, viền màu xanh, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu KX01; thu trong hộp giấy để trên gác xép phòng ngủ của S 02 túi nilon màu trắng, miệng túi đều có kẹp nhựa màu trắng, trong đó có 01 túi có viền màu xanh, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu KX02; số tiền 3.800.000đ niêm phong trong phong bì ký hiệu KX03 và 01 CMND mang tên Lê Hồng S.

Tại bản kết luận giám định số 110/PC09-MT ngày 28/5/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,297gam,loại Methamphetamine. Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu KX01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,805g, loại: Methamphetamine. Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu KX02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,593g, loại: Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 130/CT-VKS-PL ngày 09/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Lê Hồng S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Hồng S từ 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine hoàn trả sau giám định; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung vỏ màu đen; trả lại Lê Hồng S 01 CMND mang tên Lê Hồng S, số tiền 3.800.000đ; trả lại bà Lê Thị V 01 chiếc xe mô tô BKS: 29V7-5846.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hồng S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo hứa thời gian cải tạo sẽ quyết T tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người tốt có ích cho xã hội.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị V xác nhận chiếc xe mô tô BKS 29V7-5846 là của bà và bà không biết S mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên xin lại xe để sử dụng làm phương tiện đi lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nhĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hồng S đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 23/5/2019, tại khu vực tổ 4, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Lê Hồng S đang cất giữ trái phép 0,297 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để bán cho Hoàng Xuân T đã nhận 500.000đ nhưng chưa kịp đưa ma túy thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Quá trình khám xét, Lê Hồng S còn cất giữ 5,398 gam ma túy, loại Methamphetamine tại nơi ở để sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Ngày 07/3/2012, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Nam xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”vừa mới xóa án tích lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng thể hiện sự liều lĩnh coi thường bất chấp pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố đẻ đang thờ cúng liệt sỹ Lê Xuân T1 (là anh trai ruột của bố bị cáo). Bị cáo có ông ngoại là liệt sỹ Lê Văn T2 nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo có mục đích mua bán để kiếm tiền tiêu sài cá nhân nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251 và Điều 35 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên cần xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo là người nghiện ma túy, gia đình gặp nhiều khó khăn về kinh tế có xác nhận tại địa phương nơi cư trú, bản thân bị cáo là lao động tự do để quyết định mức phạt tiền phù hợp.

[6] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy: Quá trình điều tra S khai mua của người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ cụ thể gặp ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội ngoài lời khai của S không còn tài liệu, chứng cứ nào khác. Do vậy không có căn cứ để xử lý người bán ma túy cho S trong vụ án này.

Đối với Hoàng Xuân T là người đã gọi điện thoại cho Lê Hồng S hỏi mua ma túy và đưa cho S 500.000đ nhưng S chưa kịp đưa ma túy cho T thì đã bị phát hiện, bắt quả tang. Do vậy hành vi của T chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với số tiền 500.000đ và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung thu giữ của Lê Hồng S là số tiền do phạm tội mà có và điện thoại dùng để mua bán ma túy nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với số tiền 3.800.000đ và 01 CMND mang tên Lê Hồng S không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo song giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

+ Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS 29V7-5846 là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị V, bà V không biết S sử dụng xe mô tô để đi bán ma túy nên trả lại bà V là phù hợp quy định pháp luật.

+ Đối với toàn bộ số Methamphetamine cùng bao gói cần tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35, Điều 38, Điều 50, Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331;333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Lê Hồng S phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Lê Hồng S 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 3.000.000đ (Ba triệu đồng) sung Ngân sách Nhà nước.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung.

- Trả lại cho bị cáo Lê Hồng S 01 Chứng minh nhân dân mang tên Lê Hồng S và số tiền 3.800.000 đồng song giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

- Trả lại bà Lê Thị V 01 chiếc xe mô tô BKS 29V7-5846.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01, KX01 và KX02” số: 110/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 11/9/2019 và ủy nhiệm chi số 60 ngày 16/9/2019.

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Hồng S phải nộp 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:127/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về