Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn giữa chị Th và anh Ph

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 125/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ TH VÀ ANH PH

Ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 433/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1969 (có mặt).

Bị đơn: Anh Đặng Châu Ph, sinh năm 1964 (vắng mặt).

HKTT: Ấp Tân Ph, xã Phú L, huyện Phú T, tỉnh An Giang

Nơi cư trú: Ấp Phú L, xã Phú L, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim Th trình bày:

- Quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đặng Châu Ph do mai mối được sự đồng ý của anh chị, gia đình tổ chức lễ cưới vào năm 1990, đến năm 2007 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Sau khi cưới anh Ph có tính đào hoa, thường xuyên có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, chị ghen nên vợ chồng nhiều lần cự cãi, nhiều lần anh Ph hứa sửa đổi nhưng chứng nào tật nấy anh tiếp tục có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, có lần anh Ph nói anh đã có con với người phụ nữ khác, chị Th vì thương chồng nên cố gắng chịu đựng mong anh Ph có ngày sửa đổi. Từ năm 2017 đến nay vợ chồng ly thân. Nay chị không còn tình cảm với anh Ph nên chị yêu cầu ly hôn với anh Đặng Châu Ph.

Quá trình giải quyết vụ án, nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh Ph vắng mặt không lý do, không có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án.

Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của chị Th và anh Ph được anh Bùi Văn Tài là Trưởng ấp Phú Lợi cho biết anh không biết về tình trạng hôn nhân của chị Th và anh Ph. Chị Lê Thị Nới (Kim Lấn) là hàng xóm của chị Th và Ph cho biết, sau khi cưới khoảng 6 tháng chị Th phát hiện anh Ph có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, Th bỏ về quê ở tỉnh Bình Định, Ph năn nỉ vợ chồng trở lại sống chung vì Ph hứa sẽ sửa đổi. Nhưng Ph vẫn chứng nào tật nấy, tiếp tục có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, nhiều lần vợ chồng cự cải với nhau về vấn đề này, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài nhiều năm. Đến năm 2017 anh Ph gây nợ nần riêng, thường xuyên bỏ nhà đi khoảng 02- 03 ngày lại trở về nhà. Ông Lâm Văn Suôl là ba nuôi của chị Th cho biết mâu thuẫn vợ chồng chị Th và anh Ph kéo dài nhiều năm nguyên nhân do anh Ph có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, nhiều lần ông khuyên nhưng anh Ph không sữa đổi.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đặng Phương G, sinh ngày 21/3/2012 đang sống với chị Th. Chị Th yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con; kng yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ phải thu, phải trả: Không.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, qua đó cho thấy ý thức chấp hành nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là chưa nghiêm theo quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS năm 2015.

Về nội dung giải quyết vụ án: nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn, bị đơn vắng mặt không có lý do nên không ghi nhận được ý kiến. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nhận thấy hôn nhân của chị Th và anh Ph là hôn nhân hợp pháp được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong quá trình chung sống anh chị đã phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ năm 2017 đến nay nhưng gia đình hai bên và anh chị không có thiện chí hàn gắn, vì vậy yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp.

Con chung: Đặng Ph G, sinh ngày 21/3/2012, hiên đang sống với chị Th, việc chị Th yêu cầu nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con.

[1] Về thủ tục tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về quan hệ tranh chấp: Chị Nguyễn Thị Kim Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Đặng Châu Ph nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Anh Ph là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại ấp ấp Phú L, xã Phú L, huyện Phú T, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Bị đơn anh Đặng Châu Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Kim Th và anh Đặng Châu Ph được pháp luật thừa nhận, anh chị có đăng ký kết hôn. Sau khi chung sống vợ chồng bắt đầu mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Ph có quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ, mâu thuẫn của vợ chồng kéo dài từ năm 1990 đến năm 2017 ly thân. Xét tình trạng hôn nhân của anh chị mâu thuẫn trầm trọng, anh Ph vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ, chồng, không chung thủy, mâu thuẫn kéo dài nhiều năm. Căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định “…Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” cho thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Th là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Th được ly hôn với anh Ph.

Về nuôi con: Vợ chồng có một con chung tên Đặng Phương G, sinh ngày 21/3/2012, chị Th yêu cầu tiếp tục nuôi con không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con. Anh Ph không tham gia tố tụng nên không có ý kiến. Xét thấy từ khi ly thân đến nay cháu Đặng Phương G sống với chị Th, có cuộc sống ổn định, nguyện vọng cháu G được tiếp tục sống với mẹ, nên tiếp tục giao cháu G cho chị Th nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu G. Chị Th không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Ghi nhận chị Th xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[3] Về án phí sơ thẩm, căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chị Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Khon 1 Điều 56, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Khon 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kim Th được ly hôn với anh Đặng Châu Ph.

2.Về nuôi con: Chị Nguyễn Thị Kim Th tiếp tục nuôi con chung tên Đặng Phương G, sinh ngày 21/3/2012, hiện nay đang sống với chị Th. Anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Đặng Châu Ph không trực tiếp nuôi con, nhưng có quyền tới lui thăm nom con chung, chị Th cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Ph thực hiện quyền này.

- Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

3.Về chia tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về nợ: Ghi nhận chị Th xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

5. Về án phí sơ thẩm:

- Án phí hôn nhân sơ thẩm chị Nguyễn Thị Kim Th phải chịu 300.000đ được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền số 0005340 ngày 13/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân.

Chị Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Ph có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn giữa chị Th và anh Ph

Số hiệu:125/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về