Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 125/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 623/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 11/10/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hg, sinh năm 1992

HKTT: tổ X, phường HS, TPTN, tỉnh Thái Nguyên

Nơi cư trú: Thôn CK, xã NL, huyện KĐ, tỉnh Hưng Yên (Chị Hg có đơn xin xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Trần Đình Ph, sinh năm 1986

HKTT: tổ X, phường HS, TPTN, tỉnh Thái Nguyên

(Anh Ph vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

[Ti đơn xin ly hôn ngày 08/7/2019 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 18/7/2019, bản tự khai, biên bản hoà giải nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hg trình bày:

Chị và anh Trần Đình Ph được tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, được gia đình 2 bên tổ chức cưới hỏi vào năm 2012, do anh Ph mất Chứng minh nhân dân nên đến ngày 14/5/2013 vợ chồng mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân phường HS, thành phố Thái Nguyên. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống cùng bố mẹ chồng tại phường HS, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu bất đồng quan điểm và xảy ra mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt. Đến năm 2018 chị phát hiện anh Ph có người phụ nữ khác dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, trong cuộc sống vợ chồng không có sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau, ngày 22/5/2019 do có hiểu lầm từ vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống anh Ph đã đánh chị, nên chị đã bế con về nhà bố mẹ đẻ chị ở Hưng Yên sinh sống cho đến nay. Mặc dù vợ chồng đã được bố mẹ hai bên hòa giải tuy nhiên chị xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Ph Tại bản tự khai anh Ph và Phiên hòa giải anh Ph trình bày: Anh xác định quá trình kết hôn, đăng ký kết hôn và quá trình chung sống như chị Hg trình bày là đúng. Trong quá trình chung sống do vợ chồng không thông cảm và hiểu nhau nên có xảy ra một số mâu thuẫn, chị Hg đã về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 6/2019 cho đến nay, anh cũng đã nhiều lần gọi điện, nhắn tin để vợ chồng đoàn tụ, cũng như đã về Hưng Yên đón chị Hg và con tuy nhiên chị Hg không đồng ý, tại bản tự khai ngày 15/8/2019 anh nhất trí ly hôn, tuy nhiên tại phiên hòa giải ngày 27/9/2019 anh đề nghị Tòa án hòa giải vợ chồng về đoàn tụ nuôi dạy con cái.

Về con chung: Chị Hg và anh Ph xác định trong quá trình chung sống vợ chồng có có 02 con chung là Trần Đình Bảo L, sinh ngày 24/10/2012 và Trần Thị Mộc Ln, sinh ngày 06/7/2018. Hiện cháu Trần Đình Bảo L đang ở với bố, cháu Trần Thị Mộc Ln đang ở cùng với chị Hg.

Quan điểm chị Hg: Chị đề nghị được nuôi cháu Ln, anh Ph nuôi cháu L, do mỗi người nuôi một con nên không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Quan điểm anh Ph: Sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị Hg nuôi con, do mỗi người nuôi một con nên không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự đều xác định trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai cũng như không cho ai vay nợ nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân gia đình về việc yêu cầu ly hôn giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Hg, sinh năm 1992 và anh Trần Đình Ph, đều có HKTT: tổ X, phường HS, TPTN, tỉnh Thái Nguyên, căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã giải quyết theo đúng quy định pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, tống đạt Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, anh Ph có mặt tại Tòa án nhưng không đồng ý ly hôn và vắng mặt tại phiên hòa giải lần thứ 2 do đó vụ án không tiến hành hòa giải được. Căn cứ vào Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa ngày 30/10/2019 mặc dù đã được Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập hợp lệ, tại phiên tòa ngày 12/11/2019 anh Ph vắng mặt không có lý do, chị Hg có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ điểm a,b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Hg, anh Ph

[2]Về nội dung vụ án:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hg và anh Trần Đình Ph được tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, không bị ai ép buộc, kết hôn đủ điều kiện và có đăng ký kết hôn ngày 14/5/2013 tại UBND phường HS, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân năm 2018 chị Hg phát hiện anh Ph có người phụ nữ khác dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, trong cuộc sống vợ chồng không có sự quan tâm chia sẻ do đó ngày 22/5/2019 chị Hg bị anh Ph đánh nên đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở Hưng Yên sinh sống cho đến nay. Trong quá trình ly thân vợ chồng cũng được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả, mặc dù anh Ph đề nghị Tòa án hòa giải vợ chồng về đoàn tụ nuôi dậy con cái tuy nhiên Tòa án đã Thông báo hòa giải anh Ph không có mặt và cũng không đưa ra lý do vắng mặt. Tại phiên tòa các đương sự vắng mặt tuy nhiên căn cứ vào những lời khai trên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định giữa Chị Hg và anh Ph hiện nay không có sự thương yêu, quý trọng, sự chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, mặc dù mâu thuẫn đã được 2 bên gia đình hòa giải nhưng vẫn không cải thiện được do đó tình trạng hôn nhân đã ở mức mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên nên cần chấp yêu cầu xin ly hôn của chị Hg, cho chị Hg được ly hôn với anh Ph là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị Hg và anh Ph 02 con chung là Trần Đình Bảo L, sinh ngày 24/10/2012 và Trần Thị Mộc Ln, sinh ngày 06/7/2018. Chị Hg có nguyện vọng được nuôi cháu Trần Thị Mộc Ln, sinh ngày 06/7/2018, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con và đề nghị anh Ph nuôi cháu Trần Đình Bảo L tại phiên hòa giải ngày 27/9/2019 anh Ph nhất trí nội dung trên. Hội đồng xét xử xét thấy các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa tuy nhiên từ khi sinh ra đến nay cháu Lộc đều ở với anh Ph và bố mẹ anh Ph do đó cần giao cháu Lộc cho anh Ph trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Đối với cháu Trần Thị Mộc Ln, sinh ngày 06/7/2018 đến nay chưa đủ 36 tháng tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”, do đó cần giao cháu Trần Thị Mộc Ln cho chị Hg nuôi dưỡng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và phù hợp với thực tế.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do mỗi người nuôi một con, quá trình giải quyết vụ án chị Hg, anh Ph không yêu cầu, nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Ph và chị Hg cho đến khi có yêu cầu.

Anh Ph, chị Hg được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung: Do các bên xác định không có, không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị Hg phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271; điểm a,b khoản 2 Điều 227; Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hg.

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hg được ly hôn với anh Trần Đình Ph.

2. Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị Hg và anh Ph có 02 con chung là Trần Đình Bảo L, sinh ngày 24/10/2012 và Trần Thị Mộc Ln, sinh ngày 06/7/2018.

Giao cho chị Nguyễn Thị Hg trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung là Trần Thị Mộc Ln, sinh ngày 06/7/2018 đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có thỏa thuận khác. Giao cho anh Trần Đình Ph trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung là Trần Đình Bảo L, sinh ngày 24/10/2012 đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có thỏa thuận khác.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Ph và chị Hg cho đến khi các bên có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác Chị Hg, anh Ph được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Đi với quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 26 Luật thi hành án dân sự; Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3.Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Hg và anh Ph xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hg phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001982 ngày 22/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn (chị Hg), vắng mặt bị đơn (anh Ph). Báo cho chị Hg, anh Ph biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:125/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về