Bản án 124/2018/HSST ngày 25/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 124/2018/HSST NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 25 tháng 9 năm 2018. tại Hội trường Ủy ban nhân dân Phường 11, thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2018/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/QĐ-HSST ngày 14 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: HUỲNH TRÍ T, Tên gọi khác: Bờm. Sinh ngày 22 tháng 4 năm 1990. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: Thôn N, xã P, huyện L, Lâm Đồng. Chỗ ở: Thôn N, xã P, huyện L, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Phụ xe. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Huỳnh T (chết); Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1950. Vợ: Nguyễn Thị Phương T, sinh năm 1995, có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017. Hiện ở tại: Thôn N, xã P, huyện L, Lâm Đồng. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt ngày 01/3/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đồng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Trí T là đối tượng sử dụng chất ma túy (Methamphetamine) từ năm 2013. Vào khoảng 17 giờ ngày 01/3/2018, Tân liên lạc với Nguyễn Trung B, sinh năm 1989, Hộ khẩu thường trú tại: 18/5 - N, Phường 1, thành phố Đà, Lâm Đồng hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 800.000 đồng để sử dụng và hẹn sẽ giao dịch tại Cầu 3 tháng 2, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng. Sau đó T đến gặp B, đưa cho B 800.000 đồng và nhận 02 gói ma túy đá rồi giấu trong túi quần. Sau khi mua ma túy, T đi đến quán internet N tại C35 - T, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng để xem lịch trình đi xe khách. Đến khoảng 18 giờ 10 cùng ngày, khi Tân đang ở trong quán internet N thì bị Công an thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang T đang tàng trữ số ma túy nói trên. Tại Cơ quan điều tra, Huỳnh Trí T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số 541/GĐ-PC54 ngày 03/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể đựng trong 02 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 0,5481gam là Methamphetamine, Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Trí T không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với các Kết luận của Cơ quan giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số 129/CT-VKS ngày 22/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố Huỳnh Trí T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Trí T khai nhận vào chiều ngày 01/3/2018 bị cáo đã có hành vi mua chất Methamphetamine đựng trong 02 gói nilon của một đối tượng tên Nguyễn Trung B, bán tại thành phố Đà L, Lâm Đồng, sau đó tàng trữ để sử dụng và đến tối cùng ngày, khi bị cáo đang tàng trữ số ma túy trên thì bị Công an thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện bắt giữ, thu giữ số ma túy trên với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Trí T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 0,5481gam Methamphetamine là chất ma túy, để sử dụng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Huỳnh Trí từ 18 đến 24 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật. Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Huỳnh Trí T:

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo mua và tàng trữ 0,5481 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Huỳnh Trí T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 0,5481 gam Methamphetamine. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo qui định tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về áp dụng hình phạt bổ sung:

Xét hiện không xác định được bị cáo có nguồn thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có:

+ Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy;

+ Một điện thoại di động hiệu Masstel Win A2, vỏ màu đen (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo, xét bị cáo đã sử dụng cho việc liên lạc để mua ma túy, cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

+ Các tài sản khác, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã có Quyết định xử lý, vì vậy không đề cập xử lý trong bản án này.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Trí T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2]. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249 và điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Huỳnh Trí T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2018.

[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu để tiêu hủy: Hai phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Masstel Win A 2, vỏ màu đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt ngày 27/8/2018).

[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2018/HSST ngày 25/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:124/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về