Bản án 122/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 122/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 118/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Thị V, sinh năm 1989 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn An Nội, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Trịnh Thị N; có chồng là Lê Văn Q (đã ly hôn); Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2020 đến ngày 13/8/2020 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 ngày 21/7/2020, Tổ công tác Công an huyện T kết hợp Công an xã A làm nhiệm vụ tại khu vực đường liên thôn thuộc địa phận thôn T, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng phát hiện Trần Thị V có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, Tổ công tác thu giữ tại túi quần phía trước bên trái V đang mặc 01 vỏ bao diêm Thống Nhất, hình chim bồ câu, một mặt có in hình bật lửa ga màu đỏ, bên trong có 05 gói giấy gồm 03 gói giấy màu vàng và 02 gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng (nghi là chất ma túy), tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 15-234L6. Tổ công tác đã đưa V cùng vật chứng về trụ sở Công an giải quyết.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Thị V không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản Kết luận giám định số 448/KLGĐ-MT ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ trên người V là ma túy, có khối lượng 0,52 gam, là loại Heroine. Sau khi phạm tội Trần Thị V bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 10/8/2020, V đến Cơ quan Công an huyện T đầu thú.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị V khai: Do nghiện chất ma túy, loại heroine nên V thường xuyên đi mua ma túy về sử dụng. Khoảng 06 giờ ngày 21/7/2020, V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15-234L6 sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng để mua ma túy. Tại đây V gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 06 gói ma túy, loại Heroine với giá 900.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, V mang về nhà sử dụng 01 gói ma túy và cất giấu 05 gói ma túy gồm 03 gói giấy màu vàng và 02 gói giấy bạc màu trắng vào túi quần phía trước bên trái đang mặc. Khoảng 16 giờ cùng ngày khi V điều khiển xe mô tô đến địa phận thôn An Trại, xã A, huyện T thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, thu giữ vật chứng như trên.

Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy, vỏ túi đựng chất ma túy còn lại sau giám định, chuyển Chi Cục thi hành án dân sự huyện T quản lý.

Bản cáo trạng số 125/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng đã truy tố Trần Thị V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo đã thành khẩn khai báo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

Kiểm sát viên sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị V từ 24 (hai mươi bốn) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 10 tháng 8 năm 2020.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm 01 phong bì niêm phong số 448/2020/PC09 chứa chất ma túy và vỏ túi đựng chất ma túy còn lại sau giám định. Xét số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Thị V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho Trần Thị V, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra. Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 15-234L6, tài liệu điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên tách ra điều tra, làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Trần Thị V tại phiên tòa và lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang phù hợp với Kết luận giám định số 448/KLGĐ-MT ngày 24/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận: Ngày 21/7/2020, Trần Thị V có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, có khối lượng 0,52 gam, là loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang tại khu vực thôn An Trại, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc cá nhân không được sự đồng ý của cơ quan có  thẩm quyền mà tự ý giữ, cất giấu ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì bị cáo thường xuyên sử dụng ma túy nên bị cáo vẫn mua và cất giữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, kết luận bị cáo Trần Thị V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nuớc đối với chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, sau khi bỏ trốn bị cáo đã ra đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng tuy nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự song tội phạm mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng. Mặt khác, bị cáo thường xuyên sử dụng ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[7] về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án gồm 01 phong bì niêm phong số 448/2020/PC09 chứa chất ma túy và vỏ túi đựng chất ma túy còn lại sau giám định chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện T quản lý. Xét số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo Trần Thị V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thị V 24 (Hai Mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 10 tháng 8 năm 2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 448/2020/PC09 chứa chất ma túy và vỏ túi đựng chất ma túy còn lại sau giám định (Vật chứng có đặc điểm được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử: Bị cáo Trần Thị V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:122/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về