Bản án 122/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 122/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 127/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến Q (tên gọi khác: Không), sinh ngày 10 tháng 6 năm 1987 tại huyện Mê L, thành phố Hà Nội; nơi ĐKHKTT: Thôn Hạ L, xã Mê L, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội; tạm trú tại: Bản P, xã Chiềng X, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Duy L, sinh năm 1959 và bà Lê Thị Ph, sinh năm 1958; bị cáo có vợ là Lò Thị H, sinh năm 1985 và 02 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16 tháng 7 năm 2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 00 phút ngày 16/7/2019, tổ công tác Công an xã Chiềng Xôm Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La khi làm nhiệm vụ tại khu vực bản Panh, xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Tiến Q có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 09 (chín) gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất cục, bột màu trắng (Quyết tự giác lấy từ bên trong túi quần phía trước, bên phải đang mặc ra giao nộp và khai nhận là Heroine cất giữ để sử dụng cho bản thân).

Cùng ngày 16 tháng 7 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh:

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ nhất có khối lượng 0,07 gam. Lấy 0,03 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q1. Còn lại 0,04 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q2.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ hai có khối lượng 0,08 gam. Lấy 0,03 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q3. Còn lại 0,05 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q4.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ ba có khối lượng 0,09 gam. Lấy 0,04 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q5. Còn lại 0,05 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q6.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ tư có khối lượng 0,09 gam. Lấy 0,04 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q7. Còn lại 0,05 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q8.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ năm có khối lượng 0,1 gam. Lấy 0,04 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q9. Còn lại 0,06 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q10.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ sáu có khối lượng 0,09 gam. Lấy 0,04 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q11. Còn lại 0,05 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q12.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng ké thứ bảy có khối lượng 0,06 gam. Lấy 0,01 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q13. Còn lại 0,05 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q14.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ tám có khối lượng 0,02 gam. Lấy 0,01 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q15. Còn lại 0,01 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q16.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ chín có khối lượng 0,05 gam. Lấy 0,02 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, kí hiệu Q17. Còn lại 0,03 gam lưu kho vật chứng, kí hiệu Q18.

Tng khối lượng số cục bột màu trắng trong 09 gói giấy màu trắng có dòng kẻ thu giữ của Nguyễn Tiến Q có khối lượng 0,65 gam.

Kết luận giám định số 1288 ngày 22/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

Mẫu giám định ký hiệu Ql, Q3, Q5, Q7, Q9, Q11, Q13, Q15, Q17 đều là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,26 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,65 gam; loại Heroine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Tiến Q khai nhận như sau: Do bản thân có sử dụng ma túy, khoảng 10 giờ 45 phút ngày 16/7/2019, Nguyễn Tiến Q đi bộ từ nhà trọ tại bản P, xã Chiềng X, thành phố Sơn La ra quốc lộ 279Đ đón xe buýt lên xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực bản Thôm, Q xuống xe đi bộ thì gặp và mua được của một nam giới không quen biết 09 (chín) gói giấy màu trắng có dòng kẻ bên trong chứa Heroine với giá 1.000.000đ (một triệu đồng). Q cất số ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên phải đang mặc sau đó đi xe buýt về thành phố Sơn La. Khi đến khu vực bản Panh, xã Chiềng Xôm, Quyết xuống xe đi bộ về nhà thì bị cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Đi với nguồn gốc 0,65 gam Heroine, Q khai mua của một nam giới không quen biết tại khu vực bản Thôn, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phổ Sơn La không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số 124/CT-VKSTP ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Tiến Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Q từ 20 đến 26 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 09 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 0,04 gam Heroine ký hiệu Q2; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q4; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q6; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q8; 0,06 gam Heroine ký hiệu Q10; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q12; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q14; 0,01 gam Heroine ký hiệu Q16; 0,03 gam Heroine ký hiệu Q18; Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tiến Q nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 16/7/2019, Nguyễn Tiến Q đã có hành vi cất giấu trái phép 0,65 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản Panh, xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội cũng như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 16/7/2019 tại bản Panh, xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Nguyễn Tiến Q cùng vật chứng thu giữ là: 09 (chín) gói giấy màu trắng có dòng kẻ bên trong chứa cục bột màu trắng khối lượng là 0,65 gam.

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1288 ngày 22/7/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Lò Văn Ch, sinh năm 1967, trú tại: bản P, xã Chiềng X, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Tiến Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Tiến Q phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 0,65 gam Heroine, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ một năm đến năm năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hi đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu, chưa có tiền án.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Nguyễn Tiến Q khai mua của một người nam giới không quen biết vào ngày 16/7/2019 tại khu vực bản Panh, xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Do đó buộc bị cáo Nguyễn Tiến Q phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma tuý bị thu giữ.

[6] Vật chứng vụ án:

Đi với 0,39 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 09 (chín mảnh trắng màu trắng có dòng kẻ là vật dùng để cất giấu ma túy, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[7] Về án phí: Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Q 17 (mười bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 16/7/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 09 (một) mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 0,04 gam Heroine ký hiệu Q2; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q4; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q6; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q8; 0,06 gam Heroine ký hiệu Q10; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q12; 0,05 gam Heroine ký hiệu Q14; 0,01 gam Heroine ký hiệu Q16; 0,03 gam Heroine ký hiệu Q18; đã được niêm phong trong 01 (một) phong bì công văn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Nguyễn Tiến Q, sinh năm 1987. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 16/7/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 09 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ và các mẫu lưu kho ký hiệu Q2=0,04 gam; Q4=0,05 gam; Q5=0,05 gam; Q8=0,05 gam; Q10=0,06 gam; Q12 = 0,05 gam; Q14=0,05 gam; Q16=0,01gam; Q18=0,03gam, mặt sau phong bì trên giấy dán niêm phong có 01 dấu tròn đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và 06 chữ ký, 06 dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Tiến Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/10/2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:122/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về