Bản án 122/2019/HSST ngày 30/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 122/2019/HSST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 30 tháng 8 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 111/2019/HSST ngày 06 tháng 8 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2019/QĐ-HSST ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: PHẠM THỊ MỸ D. Tên gọi khác: Muội. Sinh ngày 24 tháng 3 năm 1995. Nơi sinh: Bình Định. Nơi ĐKNKTT: 114/2 - Đường P, Phường H, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Chỗ ở: 114/2 - Đường P, Phường H, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Con ông: Phạm Kim N, sinh năm 1975; Con bà: Ngô Thị T, sinh năm 1975. Hiện ở tại: 114/2 - Đường P, Phường H, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Bị cáo chưa có chồng, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang tại ngoại tại: 114/2 - Đường P, Phường H, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng.Cómặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị Mỹ D là đối tượng sử dụng chất ma túy. Trong quá trình sử dụng ma túy, D có quen biết với Phan Ngọc Q, cũng là người nghiện chất ma túy. Vào đêm ngày 18/4/2019, rạng sáng ngày 19/4/2019, sau khi dự sinh nhật của Q thì D cùng Q, Bùi Nguyễn Huy C và Trần Thanh P đến thuê phòng 2B của Khách sạn Lan Chi ở đường Đường T, Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để nghỉ ngơi. Tại đây, D hỏi Q có biết ai bán ma túy không thì Q lấy điện thoại của Q, bấm vào số máy của một người tên Lỳ (không rõ nhân thân, lai lịch) rồi đưa cho D trực tiếp nói chuyện với Lỳ, còn Q thì vào phòng vệ sinh. D hỏi mua của Lỳ 5.000.000 đồng ma túy thì Lỳ đồng ý bán. Khoảng 20 phút sau, D từ Khách sạn ra đường Đường T thì gặp một người đàn ông bịt mặt đến giao cho D 01 gói được quấn băng keo màu đen bên ngoài. Sau khi mua ma túy, D đem lên phòng 2B của Khách sạn, lúc này chỉ có P và C đang ngồi nói chuyện với nhau, còn Q vẫn đang ở trong phòng vệ sinh nên D đến trước cửa phòng vệ sinh, bóc băng keo ra kiểm tra thì thấy bên trong có 07 gói nilon đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng và 01 gói nilon đựng 07 viên nén. D đã lấy 01 gói dạng tinh thể ra mời Q, P và C cùng sử dụng. Số ma túy còn lại D cất trong chiếc túi xách màu nâu của mình để sử dụng dần. Đến khoảng 10 giờ ngày 19/4/2019 thì Trần Thanh P và Bùi Nguyễn Huy C rời Khách sạn.

Khoảng 12 giờ cùng ngày thì có 03 người phụ nữ xông vào phòng 2B của Khách sạn Lan Chi để đánh D vì cho rằng D có quan hệ nam nữ với Trần Thanh P. Sau đó nhóm người này đưa D đến đường Đống Đa, Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để nói chuyện. Lúc này chị Nguyễn Thị Huyền Vân, là một trong những người phụ nữ trên phát hiện trong túi xách của D có các gói nilon chứa tinh thể màu trắng và các viên nén, nghi là ma túy nên gọi điện báo Công an tỉnh Lâm Đồng. Đến 13 giờ cùng ngày, Phạm Thị Mỹ D bị cơ quan Công an lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm 06 gói nilon đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng và 07 viên nén đang đựng trong túi xách D đang mang theo bên mình, D khai nhận đó là ma túy, D tàng trữ để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 8243/GĐ-PC09 ngày 22/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận:

+ Mẫu chất ở dạng tinh thể màu trắng đựng trong 06 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 2,9016 gam là Ketamine. Ketamine là chất ma túy, nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

+ Mẫu gồm 07 viên nén đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 2,2476 gam là MDMA. MDMA là chất ma túy, nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Cáo trạng số 108/CT-VKS ngày 27/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố Phạm Thị Mỹ D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị Mỹ D không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với Kết luận của Cơ quan giám định nói trên và khai nhận vào rạng sáng ngày 19/4/2019 bị cáo đã có hành vi mua Ketamine và MDMA của một đối tượng tên Lỳ (không rõ nhân thân, lai lịch) tại trước Khách sạn Lan Chi, Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, sau đó đã sử dụng cùng bạn bè một ít chất Ketamine, số còn lại bị cáo tiếp tục tàng trữ để sử dụng tiếp và đến trưa cùng ngày, khi bị cáo đang tàng trữ số ma túy nói trên trong túi xách đang mang theo bên người thì bị Công an tỉnh Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện và thu giữ 07 gói ma túy nói trên với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thị Mỹ D đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 2,9061 gam Ketamine và 2,2476 gam MDMA, đều là chất ma túy, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 điều 249; điểm n, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Thị Mỹ D từ 18 đến 24 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo qui định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt vì lý do bị cáo đang mang thai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Thị Mỹ D: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có chất Ketamine và chất MDMA, là những loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo mua và tàng trữ 2,9061 gam Ketamine và 2,2476 gam MDMA với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phạm Thị Mỹ D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 2,9061 gam Ketamine và 2,24576 gam MDMA. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo qui định tại điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo là phụ nữ, lúc phạm tội và hiện nay là người đang mang thai. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại các điểm n và s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét hiện không xác định được bị cáo có thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có: Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy. Một túi xách màu nâu, có quai đeo màu đỏ-đen của Phạm Thị Mỹ D và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng, màn hình bị nứt vỡ, bên trong có gắn sim card số 0326.560.001(cả túi xách và điện thoại đã được niêm phong), xét là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Mỹ D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] . Áp dụng điểm i khoản 1 điều 249; điểm n, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Thị Mỹ D 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 02 phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định; bao gói vật chứng trước khi giám định.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 túi xách màu nâu, có quai đeo màu đỏ - đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng, màn hình bị nứt, vỡ, bên trong có gắn sim card số 0326560001 (Cả túi xách và điện thoại đã được niêm phong).

(Các vật chứng có đặc điểm cụ thể như mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2019 giữa Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2019/HSST ngày 30/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:122/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về