Bản án 12/2020/HSST ngày 26/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH H

BẢN ÁN 12/2020/HSST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2020/HSST ngày 05 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2020/QĐXX-HS ngày 12 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

T, sinh năm 1986 Nơi ĐKHKTT: xóm Đ, xã P, huyện T, tỉnh C. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đ và bà H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa có.

Nhân thân: Ngày 21/12/2010, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội “Cướp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H.

Bị cáo có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà N – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

T là đối tượng nghiện chất ma túy và hiện đang thuê trọ tại phòng trọ số 8 dãy nhà trọ của ông Th, sinh năm 1962 ở thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh H. Khoảng 11 giờ ngày 22/10/2019, T đi xe bus một mình từ bến xe bus N đi lên khu vực thị xã T, tỉnh B thì gặp một nam thanh niên, không rõ tên, địa chỉ. Nam thanh niên này hỏi T “mày có mua ma túy không”. T đồng ý và bảo mua 1.000.000đ Heroine. Nam thanh niên cầm tiền và đưa cho T 10 gói giấy bạc nhỏ, bên trong chứa chất bột màu trắng. T cầm 10 gói Hêroine rồi đi xe bus từ bến xe thị xã T, tỉnh B về bến xe thị trấn N. Khi về đến phòng trọ, T chia Hêroine từ 10 gói giấy bạc thành 20 phần và gói lại bằng giấy ôly màu trắng và cho vào túi nilon màu xanh sau đó cho vào túi quần phía trước bên trái quần T đang mặc. Tối ngày 22/10/2019, T lấy 02 gói ma túy trong túi nilon màu xanh ra để sử dụng. Đến khoảng 12 giờ ngày 23/10/2019, khi T vừa lấy 03 gói ma túy từ trong túi nilon ra cầm trên tay phải mục đích để sử dụng, còn lại 15 gói ma túy đựng trong túi nilon T lại cất vào trong túi quần phía trước bên trái quần T đang mặc. Lúc này, T đang đứng ở trước cửa phòng trọ số 8 của T thì bị Tổ công tác Công an huyện V kết hợp với Công an thị trấn N kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ: Thu trên tay phải của T 03 gói giấy, bên trong chứa chất bột màu trắng, niêm phong ký hiệu B1; Thu tại túi quần phía trước bên trái quần Thóa đTang mặc 01 túi nilon bên trong có 15 gói giấy nhỏ, bên trong các gói giấy đều chứa chất bột màu trắng, niêm phong ký hiệu B2.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT – Công an huyện V tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại phòng trọ số 8 khu nhà trọ của ông Th ở thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh H. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 23/10/2019, Cơ quan CSĐT – Công an huyện V ra Quyết định trưng cầu giám định đối với những chất trong niêm phong thu giữ của T.

Ngày 23/10/2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H có Bản kết luận giám định sơ bộ số 605/PC09; Ngày 26/10/2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H có Kết luận giám định số 605/PC09, kết luận:

- Mẫu chất màu trắng dạng bột trong niêm phong ghi B1, có tổng khối lượng 0,111g, là ma túy, là loại Heroine.

- Mẫu chất màu trắng dạng bột trong niêm phong ghi B2, có tổng khối lượng 0,630g, là ma túy, là loại Heroine.

Bản cáo trạng số 13/CT-VKS, ngày 05/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh H, truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H để xét xử bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà; Bị cáo thành khẩn khai báo như nội dung cáo trạng đã truy tố, thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày 23/10/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt và gửi bài bào chữa đề nghị: Hội đồng xét xử xem xét cho hoàn cảnh của bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử được tống đạt cho bị cáo đúng pháp luật; việc lấy lời khai những người tham gia tố tụng, hỏi cung bị can đều đảm bảo. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Hội đồng xét xử xác định việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung; lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ, phù hợp với lời khai người làm chứng, với các chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận:

Khong 12 giờ 15 phút ngày 23/10/2019, tại phòng trọ của T thuê trọ tại phòng trọ số 08 khu nhà trọ của ông Th ở thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh H, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,741 gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội, gây bất bình trong cộng đồng dân cư. Tệ nạn ma túy hiện nay đang gây nhức nhối trong xã hội, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, nguy cơ lây lan các bệnh nguy hiểm cũng xuất phát từ việc sử dụng trái phép ma túy. Việc sử dụng ma tuý ảnh hưởng đến sức khoẻ và phá vỡ các giá trị đạo đức tốt đẹp của con người. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do không làm chủ bản thân nên đã nghiện ma túy và đã đi mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Về nhân thân bị cáo: ngày 21 tháng 12 năm 2010, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án này, vì vậy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhưng phải xác định bị cáo có nhân thân xấu. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng, tiếp tục bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian thì mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo và phòng ngừa các hành vi tương tự xảy ra.

Xong cũng xét đến quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Các biện pháp tư pháp: Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H. Là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội nên sẽ cho tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về thu, nộp miễm giảm án phí, lệ phí tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo T 02 (hai) năm tù, thời gian tù tính từ ngày 23 tháng 10 năm 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh H để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HSST ngày 26/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Quang - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về