Bản án 12/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2020/TLST-HS ngày 30-7-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS ngày 06-8-2020, thông báo thay đổi thời gian xét xử số 02/2020/TB-TA ngày 18-8- 2020 và quyết định thay đổi hội thẩm số 04/2020/QĐ-TA ngày 24-8-2020 của TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên đối với bị cáo:

Kpă Y N, sinh ngày 09-10-2003 tại Phú Yên; nơi cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 4/12; dân tộc: Ê đê; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông A Lê Y C, sinh năm 1961 và bà Kpă Hờ C1, sinh năm 1964; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Khánh D, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên. Có mặt

* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Vợ chồng ông A Lê Y C, sinh năm 1961 bà Kpă Hờ C1, sinh năm 1964, đều cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông Y C vắng mặt, bà Hờ C1 có mặt.

* Bị hại: Ông Đinh Hữu T, sinh năm 1992, nơi cư trú: Khu 8, Phường Phong Hải, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Kpă Hờ Đ, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

* Người làm chứng:

- Ông Y V (Ma S); sinh năm 1986; nơi cư trú: Buôn Quang Dù, xã Đức Bình Tây, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Anh A Lê Y Đ1, sinh ngày 20/4/2003; nơi cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho A Lê Y Đ1: Bà A Lê Hờ N (mẹ Y Đ1), sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Ông Kpă Y D1, sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Ông Lê Mô Y Đ2 (Ma Q), sinh năm 1983; nơi cư trú: Buôn Quang Dù, xã Đức Bình Tây, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Ông Lê Mô Y K, sinh năm 1990; nơi cư trú: Buôn Quang Dù, xã Đức Bình Tây, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Ông A Lê Y C3, sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn Xây Dựng, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25-01-2020 (mùng 01 tết âm lịch), A Lê Y Đ1, A Lê Y C3, Kpă Y N và Kpă Y D1 đến nhà M (mẹ vợ T) tại Buôn Quang Dù, xã Đức Bình Tây, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên cùng ăn nhậu với T và một số thanh niên. Đến khoảng 15h00 cùng ngày, trong lúc ăn nhậu giữa Y Đ1 với T xảy ra mâu thuẫn, T dùng mũ cối đánh Y Đ1 một cái trúng tay nhưng chưa gây thương tích gì, Y Đ1 lấy cây định đánh lại nhưng được mọi người can ngăn nên Y Đ1 dừng lại không đánh được T. Lúc này, Y N (anh họ Y Đ1) nhặt một đoạn gỗ tròn cứng dài 66cm, đường kính 10cm đứng lên cầm hai tay đánh từ phía sau trúng vào đầu của T gây thương tích, Y N vứt cây chạy trốn vào đám mía, sau đó quay lại gặp T xin lỗi, T được chuyển đến bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên điều trị.

Tại bản giám định số 76/TgT ngày 20-3-2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Tỷ lệ thương tích của Đinh Hữu T bị tác động bởi vật tày có cạnh gây nên thương tích 21% (hai mươi mốt phần trăm).

Vật chứng vụ án: 01 (một) cây gỗ tròn dài 66cm, đường kính 10 cm và 01 (một) mũ cối màu xanh.

Cáo trạng số 09/CT-VKS, ngày 27-7-2020 của VKSND huyện Sông Hinh đã truy tố Kpă Y N về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Kpă Y N phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65, Điều 91, Điều 101 BLHS xử phạt bị cáo Kpă Y N từ 18 tháng đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX tính toán việc bồi thường theo đó bị cáo và cha mẹ bị cáo phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông T 28.390.000 đồng, đã bồi thường 16.735.000 đồng, còn phải bồi thường 11.655.000 đồng. Về vật chứng: Đề nghị tuyên tiêu hủy 01 cây gỗ tròn, 01 mũ cối màu xanh và phải chịu tiền án phí theo quy định.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo khai nhận do thấy bị hại đánh anh họ của bị cáo nên nhặt cây đánh lại, đã gây thương tích 21%. Bị cáo biết dùng cây đánh người là sai, nhờ tòa xem xét.

Ý kiến của bị hại: Y N dùng cây đánh bị hại vào vùng đầu là vùng nguy hiểm trong khi giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, đã gây ra thương tích 21%, yêu cầu bị cáo bồi thường 55.000.000 đồng, đã bồi thường 16.735.000 đồng, còn phải bồi thường 38.265.000 đồng, về hình phạt cho bị cáo hưởng án treo cũng được nhưng phải bồi thường thỏa đáng.

Ý kiến của người liên quan: Hờ Đ3 (chị ruột bị cáo) là người trực tiếp cùng người nhà bị hại lo, chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị (từ ngày 26-01-2020 đến 01-02-2020) và là đại diện gia đình bị cáo thỏa thuận, trả tiền bồi thường cho gia đình bị hại 16.735.000 đồng.

Ý kiến của người làm chứng:

- Ông Y V (Ma S): Ma Siêng là anh em cột chèo với T, trưa mùng 01 tết, mẹ vợ tổ chức cho anh chị em nhậu, sau khoảng một giờ nhậu thì có bốn thanh niên vào chơi và mang bia theo uống, quá trình ăn nhậu giữa T với một trong bốn thanh niên đến chơi có mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau, T cầm mũ cối đánh Y Đ1, Y Đ1 tránh được nên không gây ra thương tích, lúc này Y N đứng dậy nhặt một khúc cây đánh vào đầu T gây thương tích.

- Ông A Lê Y Đ1: Giữa Y Đ1 và T có mâu thuẫn dẫn đến vụ án là do T ép chúng tôi uống bia và còn chửi chúng tôi, mà chúng tôi đã say nên bị T cầm mũ cối đánh, Y Đ1 định đánh lại nhưng mọi người can ngăn, cùng lúc đó Y N nhặt cây đánh T một cây chảy máu đầu, Y N nói “Tao đánh nó rồi”.

- Ông Kpă Y D1 (là bạn trai Hờ Nhung, em vợ T): Y Dịu, Y Chôm, Y Đ1 và Y N từ Suối Trai đến nhà Hờ Nhung (nhà Mí Em) chơi, đang ăn nhậu thì giữa Y Đ1 và T có mâu thuẫn trong lời nói, T đứng dậy dùng mũ cối đánh Y Đ1, Y Đ1 đỡ được nên không có thương tích gì, Y N thấy vậy nhặt đoạn cây đánh lại gây thương tích cho T, sau đó Y N thấy sai vào xin lỗi T.

- Ông Lê Mô Y Đ2 (Ma Q): Ma Q là anh vợ T, thấy T đánh Y Đ1, Y N dùng cây đánh T chảy máu đầu, là người cùng gia đình đưa T đi viện.

- Ông Lê Mô Y K: Y K là anh ruột Hờ N1, gia đình tổ chức ăn nhậu nhân ngày tết, đang ăn nhậu thì có bốn thanh niên trong đó có Y D1 là bạn trai Hờ N1 đến chơi, nhậu một lúc thì giữa T và Y Đ1 xảy ra mâu thuẫn, T bị Y N nhặt một cây đánh một cái gây thương tích.

- Ông A Lê Y C3: Bốn thanh niên đi hai xe máy, Y C3 là bạn Y D1 nên ghé nhà Hờ N1 là bạn gái Y Dịu chơi và mâu thuẫn xảy ra, T đánh Y Đ1, Y N đánh lại T.

- Trợ giúp viên pháp lý, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Hoàn toàn nhất trí với nội dung bản cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để bị cáo có điều kiện cải tạo, khắc phục thiệt hại cho bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Bị cáo là người chưa thành niên (đến ngày phạm tội 16 tuổi 03 tháng 16 ngày), lẽ ra biết bị hại có hành vi dùng mũ cối đánh người là không đúng thì nên khuyên can, nhưng bị cáo đã không kiềm chế được mà tự ý dùng cây là hung khí nguy hiểm đánh vào vùng đầu của T gây thương tích cho T 21%. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Khoản 2 Điều 134 BLHS quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm.

... điểm đ: Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

Do đó, Cáo trạng của VKSND huyện Sông Hinh đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Sau khi đánh T, bị cáo ra đầu thú, xin lỗi bị hại, nhờ người thân (Hờ Đ3 chị Y N), cùng đưa T đi bệnh viện và lo lắng chăm sóc bị hại, đã tự nguyện thăm và bồi thường một phần thiệt hại, thật thà khai báo, ăn năn hối cải; nhất thời phạm tội nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[4] Hướng xử lý: Hành vi của bị cáo gây thương tích cho bị hại T 21%, bị cáo đã dùng cây gỗ tròn đánh bị hại là dùng hung khí nguy hiểm nên cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật có hạn chế, là người chưa thành niên phạm tội nên mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ¾ so với người thành niên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên nhưng không thể áp dụng mức án thấp nhất của khung hình phạt. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo hưởng án treo như đề nghị của Kiểm sát viên và lời bào chữa của trợ giúp viên pháp lý nhà nước tại phiên tòa. Giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật và lượng khoan hồng của Nhà nước mà an tâm cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 55.000.000 đồng để tiếp tục đi mổ vết thương do sức khỏe chưa ổn định, bị cáo không có tiền bồi thường. Do vậy, theo đơn yêu cầu bồi thường, các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ, HĐXX tính toán theo quy định pháp luật như sau:

-Tiền viện phí: 4.613.900 đồng;

-Tiền xe chuyển viện (từ Bệnh viện tỉnh Phú Yên đến tỉnh Bình Định), tiền xe đi lại thăm, nuôi từ nhà đến bệnh viện tỉnh Phú Yên và ngược lại: 6.000.000 đồng;

-Tiền công nằm viện 10 ngày (từ 26-01-2020 đến 04-02-2020) tại bệnh viện tỉnh Phú Yên và tiền nghỉ dưỡng bệnh 60 ngày là: (60+10) ngày x 150.000 đồng/ngày = 11.500.000 đồng;

-Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe: 70 ngày x 30.000 đồng/ngày = 2.100.000 đồng;

-Tiền công người nuôi người bệnh: 10 ngày x 150.000 đồng/ngày = 1.500.000 đồng;

-Tiền tổn thất tinh thần: 12 tháng lương tối thiểu: 12 tháng x 1.490.000 đồng/tháng=17.880.000 đồng.

Tổng cộng 43.593.900 đồng, đã bồi thường 16.735.000 đồng, còn phải bồi thường 26.858.900 đồng.

Theo quy định Điều 586 BLDS: Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Tại phiên tòa, chị và mẹ bị cáo cho biết bị cáo không có tài sản, thu nhập gì. Do vậy, bị cáo, cha mẹ (Y C và Hờ C1) phải cùng liên đới bồi thường cho bị hại Đinh Hữu T số tiền 43.593.900 đồng, đã bồi thường 16.735.000 đồng, còn phải tiếp tục bồi thường 26.858.900 đồng.

[6] Về vật chứng: 01 cây gỗ tròn, dài 66cm là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tiêu hủy; 01 mũ cối do bị hại không nhận lại và cũng không còn giá trị sử dụng nên cũng cần tuyên tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Riêng về tiền án phí dân sự do bị cáo và cha mẹ bị cáo sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn tiền án phí dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Kpă Y N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

 [2] Các điều luật áp dụng:

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 586, Điều 590 Bộ luật dân sự;

Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS;

Căn cứ Điều 12, Điều 23; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[3] Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Kpă Y N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Kpă Y N cho UBND xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên giám sát, giáo dục trong thời hạn thử thách, trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 và khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Gia đình bị cáo và UBND xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên có trách nhiệm phối hợp với nhau trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo, cha mẹ bị cáo (ông Y Chim bà Hờ Chóp) phải liên đới cùng bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, theo đó phải bồi thường cho bị hại ông Đinh Hữu T số tiền 43.593.900 đồng, đã bồi thường 16.735.000 đồng, còn phải bồi thường 26.858.900 đồng (hai mươi sáu triệu tám trăm năm mươi tám nghìn chín trăm đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 BLDS, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tuyên tiêu hủy: 01 cây gỗ tròn dài 66cm và 01 mũ cối màu xanh (theo biên bản bàn giao vật chứng của Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Hinh ngày 28-7-2020).

[6] Về án phí: Bị cáo Kpă Y N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp và trợ giúp viên pháp lý nhà nước bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Hinh - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về