Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 30/2020/TLST-HNGĐ, ngày 30 tháng 01 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXX-ST, ngày 04 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12A/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Thái Thị G, sinh năm 1992 (có mặt).

2- Bị đơn: Anh Lê Phước M, sinh năm 1989 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 01/10/2019 nguyên đơn chị Thái Thị G trình bày và yêu cầu như sau:

Về hôn nhân: Chị Gi và anh Lê Phước M kết hôn với nhau vào năm 2010, có tổ chức lễ cưới theo phong tục ở địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 16/3/2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.Vợ chồng chung sống thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm, thậm chí anh M thường xuyên kiếm chuyện đánh đập vợ con và tham gia các tệ nạn xã hội như cờ bạc làm cho gia đình không còn hạnh phúc, từ đó vợ chồng đã ly thân với từ tháng 4/2010 cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm của vợ chồng không còn n ữa, mục đích hôn nhân không đạt nên chị yêu cầu xin được ly hôn với anh Lê Phước M.

Về con chung: Có 01 người con tên Lê Phước K, sinh ngày 13/6/2011, từ khi ly thân cho đến nay chị chăm sóc, nuôi dưỡng cháu, cuộc sống của cháu vẫn ổn định và bản thân chị cũng có đủ điều kiện nuôi con. Nay chị yêu cầu xin được nuôi và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Chị thừa nhận không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Phước M Tòa án đã tống đạt hợp lệ gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh M vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị Thái Thị G.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Thái Thị G vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như đã nêu trên.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Lê Phước M vắng mặt. Quan điểm của đại viện Viện kiểm sát:

Về phần thủ tục: Từ khi thụ lý hồ sơ vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thì Thẩm phán đã thực hiện trình tự thủ tục đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký đã thực hiện trình tự thủ tục đúng theo quy định của pháp luật.

Về phần nội dung:

Về hôn nhân: Ghi nhận yêu cầu của chị Thái Thị G, xử cho chị Thái Thị G và anh Lê Phước M được ly hôn.

Về con chung: Ghi nhận yêu cầu của chị Thái Thị G giao cháu Lê Phước K, sinh ngày 13/6/2011 cho chị G chăm sóc, nuôi dưỡng, anh M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và phần nợ chung: Chị Thái Thị G thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền xét xử: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn, nuôi con và bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử là đúng thẩm quyền.

[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với anh Lê Phước M được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với anh Lê Phước M.

[3] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Thái Thị G và anh Lê Phước M kết hôn với nhau vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn 16/3/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Tây Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang nên hôn nhân của chị G và anh M là hợp pháp.

Về mâu thuẫn, vợ chồng chung sống thường phát sinh ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất động quan điểm sống, dẫn đến cự cải và xung đột với nhau, từ đó vợ chồng đã ly thân với nhau từ tháng 4 năm 2019 cho đến nay. Hơn nữa từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay bản thân anh chị và gia đình cha mẹ hai bên cũng không tự hòa giải được.

Từ đó, xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Thái Thị G xử cho chị Thái Thị G và anh Lê Phước M ly hôn là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Chị Thái Thị G và anh Lê Phước M có 01 người con tên Lê Phước K, sinh ngày 13/6/2011, chị G yêu cầu xin được nuôi con và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, yêu cầu của chị G là có cơ sở. Bởi vì, từ khi ly thân cho đến nay chị G chăm sóc, nuôi dưỡng cháu, cuộc sống của cháu vẫn ổn định và bản thân chị có đủ điều kiện để nuôi con, hơn nữ a cũng theo nguyện vọng của cháu K. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận yêu cầu của chị G là giao cháu Lê Phước K cho chị Giang chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh M không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Về tài sản và nợ chung: Chị Thái Thị G thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[4] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Thái Thị G phải chịu 300.000đ. Nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ. Vậy chị G đã nộp đủ tiền án phí.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nêu trên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án và khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, đểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Thái Thị G và anh Lê Phước M được ly hôn.

2. Về con chung: Ghi nhận yêu cầu của chị Thái Thị G là giao cháu Lê Phước K, sinh ngày 13/6/2011 (theo nguyện vọng của cháu K) cho chị G chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh M có quyền thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Khi cần thiết chị G và anh M có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị Thái Thị G thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Thái Thị G phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), theo lai thu số 0008411, ngày 30/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị G đã nộp đủ tiền án phí.

5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm báo cho chị G có mặt biết có quyền kháng cáo Bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/5/2020). Đối với anh M vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về