Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về ly hôn giữa anh Đ và chị T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ LY HÔN GIỮA ANH Đ VÀ CHỊ T

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 286/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 229/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2019 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 190/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Anh L V Đ, sinh ngày 09-9-1985 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt) ĐKHKTT: Số nhà 238, Tổ 9, ấp B C 2, xã B M, huyện C P, tỉnh An Giang.

Tm trú: Số nhà 48/9, Tổ 15, khu phố B G, phường T G, thị xã T A, tỉnh Bình Dương.

2.Bị đơn: Chị N T B T, sinh ngày 28-4-1993 (vắng mặt) ĐKHKTT: Tổ 2, ấp V P, xã V A, huyện C T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, tờ tự khai ngày 04-7-2019 và quá trình tố tụng, nguyên đơn anh L V Đ trình bày:

+Về hôn nhân: Anh và chị N T B T kết hôn năm 2009, hôn nhân do quen biết, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã B M, huyện C P, tỉnh An Giang số 99 ngày 02-5-2012. Sau khi cưới vợ chồng sống chung với cha mẹ chồng; năm 2011 vợ chồng lên tỉnh Bình Dương làm công nhân và sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 4 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, chị T không lo làm ăn dẫn đến bất đồng trong tình cảm vợ chồng nên vợ chồng luôn bất hòa, gia đình không êm ấm, không hạnh phúc. Đầu năm 2016, chị T bỏ nhà đi, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay anh nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với chị N T B T.

+Về con chung: Có 02 con chung tên L V V, sinh ngày 17-5-2010 và L V Đ, sinh ngày 07-7-2013. Hiện anh đang nuôi con. Nếu ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi con.

+Về cấp dưỡng nuôi con: Anh không yêu cầu chị N T B T cấp dưỡng nuôi con.

+Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và 2 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho chị N T B T, nhưng chị T vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 19-8-2019, cháu L V V trình bày: Cháu đang sống với cha và ông bà nội, cha gửi anh em cháu cho ông bà nội nuôi dùm để đi học. Cháu học lớp 3. Nếu cha mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng sống với cha và ông bà nội.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:

1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với nguyên đơn anh L V Đ, bị đơn chị N T B T, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, nguyên đơn anh Đ có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn chị T vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với nguyên đơn anh Đ và bị đơn chị T.

[2] Về hôn nhân: Anh L V Đ và chị N T B T kết hôn vào năm 2009. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã B M, huyện C P, tỉnh An Giang số 99 ngày 02- 5-2012 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Anh Đ có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa anh Đ và chị T nhưng chị T không tham gia hòa giải. Anh Đ và chị T đã sống ly thân từ đầu năm 2016 cho đến nay đã gần 4 năm. Từ khi sống ly thân đến nay anh Đ và chị T không ai có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa anh Đ và chị T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là anh Đ được ly hôn với chị T là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Anh L V Đ và chị N T B T có 02 con chung. Anh Đ đang nuôi con. Chị T không tranh chấp nuôi con.

Xét thấy: Cháu V và cháu Đ hiện đang sống với anh Đ, 2 cháu được đi học, cháu V đã trên 7 tuổi và có nguyện vọng sống với anh Đ. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của 2 cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho anh Đ được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là phù hợp.

Anh L V Đ và các thành viên trong gia đình anh Đ không được cản trở chị N T B T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị N T B T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh Đ có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của chị T theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh L V Đ không yêu cầu chị N T B T cấp dưỡng nuôi con; chị N T B T không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Anh L V Đ trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị N T B T không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn anh L V Đ phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0014387 ngày 30-7-2019 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[7] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; nguyên đơn anh L V Đ, bị đơn chị N T B T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khon 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự;

Các Điều 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử:

[1] Về hôn nhân: Anh L V Đ được ly hôn với chị N T B T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 99 ngày 02-5-2012 của Ủy ban nhân dân xã B M, huyện C P, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

[2] Về con chung: Anh L V Đ được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên L V V, sinh ngày 17-5-2010 và L V Đ, sinh ngày 07-7-2013.

Anh L V Đ và các thành viên trong gia đình anh Đ không được cản trở chị N T B T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị N T B T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh Đ có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của chị T theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về án phí: Nguyên đơn anh L V Đ phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0014387 ngày 30-7-2019 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh L V Đ, bị đơn chị N T B T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về ly hôn giữa anh Đ và chị T

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về