Bản án 12/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Cao Hà N - sinh năm 1994; nơi ĐKHKTT và nơi ở: Làng A L, thôn B N, xã T L, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Như T và bà Trịnh Thị T; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2019 đến ngày 09/01/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Cao Như T - sinh năm 1960;(Vắng mặt)

2. Bà Trịnh Thị T - sinh năm 1960; (Có Mặt)

Cùng cư trú tại: Làng A L, thôn B N, xã T L, huyện T, tỉnh Hà Nam.

- Người làm chứng: Li Trung N - sinh năm 1975; cư trú tại: Thôn D, xã T H, huyện T, tỉnh Hà Nam.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Hà N là đối tượng nghiện ma túy, do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên khoảng 16 giờ ngày 03/01/2019, N điều khiển xe mô tô BKS 90B1-183... đi từ nhà đến dốc Bảo Lộc thuộc phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để mua ma túy về sử dụng. Đến dốc Bảo Lộc, N gặp người đàn ông lái xe ôm khoảng 30 tuổi (Trước đó N đã mua ma túy của người này vài lần nhưng N không biết tên và địa chỉ của người này). Khi gặp người đàn ông lái xe ôm, N đưa cho người này 300.000 đồng và người này đưa lại cho Nam 01 gói giấy bạc màu vàng, N biết là ma túy, nên cầm ở tay trái và điều khiển xe đi về. N đi đến nghĩa trang thuộc thôn Dương Xá, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, N dừng xe lại định sử dụng thì bị Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang.

* Tài sản, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:

- Thu giữ tại lòng bàn tay trái của N 01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục (nghi là Heroine), được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01.

- Thu giữ trong túi áo khoác bên trái của N đang mặc 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT02.

- Thu giữ của N 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Ware RSX màu đỏ đen, BKS 90B1-183....

Tiến hành khám xét nơi ở của Cao Hà N Cơ quan điều tra không thu giữ tài liệu, đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 04/PC09-MT ngày 07/01/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,282g (Không phảy hai trăm tám mươi hai gam) loại: Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 9, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 12/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Cao Hà N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Hà N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự - Xử phạt Cao Hà N từ 18 đến 24 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy lượng Heroine hoàn lại sau giám định.

Bị cáo N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Trịnh Thị T có ý kiến bà là mẹ đẻ của bị cáo. Chiếc điện thoại Nokia mà Cơ quan điều tra thu giữ là của bà cho bị cáo mượn nay Cơ quan điều tra đã lại cho bà nên không có ý kiến gì chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 03/01/2019, tại thôn Dương Xá, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; Cao Hà N đang cất giữ trong người 01 gói Heroine có khối lượng 0,282g để sử dụng cho bản thân, thì Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi đó nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ kéo theo nhiều tệ xã hội cũng như tội phạm nguy hiểm khác.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có quá trình tham gia trong lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân lương thiện và có tác dụng phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập ổn định; nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về nguồn gốc số Heroine thu giữ: Cao Hà N khai nhận mua của một người đàn ông lái xe ôm tại dốc Bảo Lộc thuộc phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (N không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này). Ngoài lời khai của N thì không còn tài liệu nào khác, do đó Cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ nguồn gốc số Heroine và đối tượng đã bán Heroine cho N nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đi với lượng Heroine hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đi với 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Ware RSX màu đỏ đen, BKS 90B1-183... thu giữ của N. Quá trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại Nokia màu đen là tài sản hợp pháp của bà Trịnh Thị T (mẹ đẻ bị cáo) và chiếc xe mô tô nhãn hiệu Ware RSX màu đỏ đen, BKS 90B1-183... là tài sản hợp pháp của ông Cao Như T (bố đẻ bị cáo), những tài sản này không liên quan đến tội phạm trong vụ án, nên CQĐT đã trả lại cho bà T, ông T những tài sản trên là phù hợp pháp luật .

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106; 136; 329; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 1. Tuyên bố: Bị cáo Cao Hà N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Xử phạt bị cáo Cao Hà N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 03/01/2019.

2. Xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy lượng Heroine hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 04/PC09-MT mặt trước phong bì ghi chữ “Mẫu vật hoàn trả”.

(Tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/3/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Liêm).

3. Án phí: Buộc bị cáo Cao Hà N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về