Bản án 12/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Phú xét sử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 194/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Thanh T, sinh ngày 01/12/1984; Tại: Kiên Giang; Thường trú: 656/14 Đường B, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên dọn phòng khách sạn; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam, Con Trần Văn Q (chết) và bà Châu Mỹ N; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/9/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Tạ Nhật T, sinh năm 1979 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: 12/3 Đường số 18, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Bà Trần Thu T, sinh năm 1976 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: 656/14 Đường B, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 22/9/2018, Trần Thanh T sử dụng điện thoại để hẹn mua một hộp năm ma túy đá (5 gói) giá 2.200.000 đồng của một người đàn ông (không rõ lai lịch) tại ngã tư đường Bình Long – Tân Kỳ Tân Quý, phường Tân Quý, quận Tân Phú. Sau đó, T điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 51K1 – 3578 để gặp người đàn ông trên, mua ma túy xong T bỏ 5 gói ma túy vào hộp kim loại hình trụ tròn dạng viên pin rồi bỏ vào túi xách đeo hông màu đen treo ở móc baga trước xe máy. Đến khoảng 03 giờ 15 phút ngày 23/9/2018, T chạy xe gắn máy trên đến trước nhà 656 Bình Long, phường Tân Quý, quận Tân Phú đứng đợi bạn tên Minh (không rõ lai lịch) để cùng đi ăn thì bị tổ tuần tra Công an phường Tân Quý phát hiện bắt quả tang cùng số ma túy trên.

Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận đây là lần đầu mua ma túy của người đàn ông trên, T biết người này bán ma túy thông qua một người bạn ngoài xã hội giới thiệu, mục đích mua ma túy là để sử dụng, tiền mua ma túy là do một mình T bỏ ra.

Tại Kết luận giám định số 1576/KLGĐ-H ngày 27/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 05 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Lê Duy Hòa (điều tra viên), Lý Hồng Chương (người chứng kiến), Trần Thanh T và hình dấu công an phường Tân Quý, quận Tân Phú là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,9159g (ba phẩy chín một năm chín gam), loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ: Đang nhập kho vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 13/PNK ngày 27/11/2018 gồm:

+ 01 (một) gói niêm phong ghi số 1576 bên ngoài có chữ ký điều tra viên Lê Duy Hòa (điều tra viên), Trần Thanh T, Lý Hồng Chương (người chứng kiến), giám định viên bên trong chứa Methamphetamine.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đồng, imei không có.

+ 01 (một) điện thoại hiệu Sony màu trắng, imei không có.

+ 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Nouvo màu đen biển số 51 K1-3578, số máy 5VD1-28091, số khung RLCN5VD104Y028091.

+ 01 (một) túi xách dạng đeo hông màu đen.

+ 01 (một) hộp kim loại hình trụ tròn dạng viên pin.

Tại Cáo trạng số 07/CT-VKSQTP ngày 26/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú để xét xử bị cáo Trần Thanh T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;

Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;

Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú về mức án đối với bị cáo Trần Thanh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Trần Thanh T thừa nhận, do nghiện ma túy nên vào khoảng 03 giờ 15 phút ngày 23/9/2018, tại trước nhà số 656 Đường B, phường T, quận Tân Phú bị tổ tuần tra Công an phường Tân Quý kiểm tra, bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ 3.9159 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tang vật chứng thu giữ, phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung“Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng, thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng xem xét bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu. Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[3] Đây là dạng tội, ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 nên Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (một) gói niêm phong ghi số 1576 bên ngoài có chữ ký điều tra viên Lê Duy Hòa (điều tra viên), Trần Thanh T, Lý Hồng Chương (người chứng kiến), giám định viên bên trong chứa Methamphetamine là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đồng, imei không có, Tuấn khai dùng để liên lạc mua ma túy, đây là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

+ Đối với 01 (một) điện thoại hiệu Sony màu trắng, imei không có thu giữ của bị cáo, xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Đối với 01 (một) túi xách dạng đeo hông màu đen và 01 (một) hộp kim loại hình trụ tròn dạng viên pin là những vật không có giá trị thì bị tịch thu, tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Nouvo màu đen biển số 51 K1 – 3578, số máy 5VD1 – 28091, số khung RLCN5VD104Y028091; qua xác minh do anh Tạ Nhật T, sinh năm 1979; Địa chỉ: 12/3 Đường số 18, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Anh T đã bán xe trên cho chị Trần Thu T, sinh năm 1976; Địa chỉ: 656/14 Đường B, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh – là chị ruột của Trần Thanh T nhưng chưa sang tên và làm giấy tờ mua bán. Chị T cho T mượn xe để làm phương tiện đi lại, T sử dụng để đi mua ma túy, chị T không biết; Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị T nên Hội đồng xét xử không xem xét. 

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2018.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về xử lý vật chứng: (Tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 13/PNK ngày 27/11/2018 của Công an quận Tân Phú).

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi số 1576 bên ngoài có chữ ký điều tra viên Lê Duy Hòa (điều tra viên), Trần Thanh T, Lý Hồng Chương (người chứng kiến), giám định viên bên trong chứa Methamphetamine; 01 (một) túi xách dạng đeo hông màu đen và 01 (một) hộp kim loại hình trụ tròn dạng viên pin.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đồng, imei không có.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại hiệu Sony màu trắng, imei không có nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về