Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2019 , về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 177/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị N, sinh năm 1980; ĐKHKTT: Tổ C2 (Tổ 05, Khu 04), phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Thôn Phủ Niệm, xã Thái Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Phạm Đức Đ; địa chỉ: Tổ C2 (Tổ 05, Khu 04), phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai của nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, quận K, thành phố Hải Phòng vào ngày 07/11/2006. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn thường xuyên xảy ra cãi nhau, cuộc sống vợ chồng, căng thẳng, không hạnh phúc. Nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, thiếu tôn trọng nhau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tình cảm và kinh tế gia đình. Gia đình hai bên đã khuyên bảo nhiều nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay xác định tình cảm vợ chồng không không còn, mâu thuẫn đã quá nghiêm trọng, không thể đoàn tụ được nên chị Hoàng Thị N đề nghị Toà án giải quyết cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Phạm Đức Đ.

Về nuôi con: Chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ có 02 con chung là Phạm Đức Nhật A, sinh ngày 08/8/2007 và Phạm Đức Hoàng T, sinh năm 18/02/2012. Khi ly hôn, chị Hoàng Thị N đề nghị được nuôi cả 02 con chung, vì hiện tại các cháu đều ở với mẹ được chăm sóc tốt phát triển bình thường.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị N tự thoả thuận với anh Phạm Đức Đ, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị N không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình Toà án giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận K tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh Phạm Đức Đ không hợp tác, không đến Toà án làm việc, không tham gia các phiên hoà giải, không có văn bản thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án cơ bản thực hiện đúng trình tự tố tụng, nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, vi phạm quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Hoàng Thị N được ly hôn anh Phạm Đức Đ. Về con chung: Giao con chung là Phạm Đức Nhật A, sinh ngày 08/8/2007 và Phạm Đức Hoàng T, sinh năm 18/02/2012 cho chị Hoàng Thị N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh Phạm Đức Đ hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị N không đề nghị Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Anh Phạm Đức Đ; nơi cư trú: Tổ C2 (Tổ 05, Khu 04), phường T, quận K, thành phố Hải Phòng, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tòa án nhân dân quận K đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh Phạm Đức Đ không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do lần thứ hai.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Phạm Đức Đ.

[3] Về quan hệ pháp luật: Chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Uỷ ban nhân dân phường T, quận K, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn quyển số 01/2006 ngày 07-11-2006. Vì vậy, hôn nhân giữa chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về hôn nhân: Căn cứ vào bản tự khai của chị Hoàng Thị N và các tài liệu có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ trong quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không hợp nhau, hai vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận đề nghị của chị Hoàng Thị N xin ly hôn anh Phạm Đức Đ là phù hợp pháp luật.

[5] Về nuôi con: Chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ có 02 con chung là: Phạm Đức Nhật A, sinh ngày 08/8/2007 và Phạm Đức Hoàng T, sinh năm 18/02/2012; quá trình điều tra xác minh thể hiện, cháu Phạm Đức Nhật A và cháu Phạm Đức Hoàng T đều có nguyện vọng muốn ở với mẹ, cả 02 cháu hiện đang ở với mẹ, được chăm sóc tốt, phát triển bình thường, quá trình Tòa án giải quyết vụ án anh Phạm Đức Đ không có quan điểm về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung và hiện tại anh Phạm Đức Đ vắng mặt ở địa phương, nên chị Hoàng Thị N có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 con chung là phù hợp cần chấp nhận. Căn cứ vào Điều 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cả 02 con chung cho chị Hoàng Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Phạm Đức Đ không có bản tự khai, nên không thể hiện gì về các quan hệ như hôn nhân, con chung và tài sản chung nên cần tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Phạm Đức Đ hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[6] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị N không yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; các Điều 81; 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

n cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị N:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị N và anh Phạm Đức Đ.

2. Về nuôi con: Giao cả 02 con chung Phạm Đức Nhật A, sinh ngày 08/8/2007 và Phạm Đức Hoàng T, sinh năm 18/02/2012 cho chị Hoàng Thị N nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Phạm Đức Đ hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Chị Hoàng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010389 ngày 04/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng, chị Hoàng Thị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Hoàng Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Phạm Đức Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07 và 09 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về