Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 457/2018/TLST-HNGD ngày 10/12/2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Trần Thị Trúc G, sinh năm 1978; nơi cư trú: ấp B, xã PN, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Hiện tạm trú: ấp PT, xã P, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. (có mặt)

2. Bị đơn: anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1975; nơi cư trú: ấp B, xã PN, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị G trình bày:

Chị và anh B kết năm 1995, hôn nhân do cả hai tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã PN, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre vào năm 2002. Sau kết hôn cuộc sống vợ chồng cũng không được hạnh phúc, nguyên nhân là do anh B không lo làm ăn mà cứ cờ bạc gây nợ nần, chị đã nhiều lần khuyện nhủ, trả nợ cho anh và cho anh cơ hội sửa đổi để nuôi dạy các con nhưng anh vẫn không sửa. Hai vợ chồng đã đã ly thân từ tháng 01/2017 đến nay. Hiện tình cảm của chị đối với anh B không còn. Nay chị cương quyết xin được ly hôn.

Về con chung: có 02 cháu tên Nguyễn Binh P, sinh ngày 19/9/2003 và Nguyễn Minh Q, sinh ngày 26/3/2015. Chị xin được nuôi hai con và không yêu cầu cấp dưỡng.

Tài sản chung: không có

Nợ chung: chị G khai không có

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần mời anh B đến để tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh B vẫn vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm:

Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xin ly hôn. Chị G được tiếp tục nuôi hai con và ghi nhận việc chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả của việc tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận thấy:

[1] Ngày 12/11/2018 chị Trần Thị Trúc G có đơn xin ly hôn với Nguyễn Văn B, hai anh chị đang cư trú tại thành phố Bến Tre nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre theo quy định tại các Điều 28,35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo hòa giải nhưng anh B không có mặt theo thông báo hòa giải nên không thể tiến hành mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải được. Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre cũng đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập, quyết định hoãn phiên tòa cho anh B để tham gia phiên tòa nhưng anh vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh B là phù hợp.

[3] Chị Trần Thị Trúc G và anh Nguyễn Văn B kết hôn năm 1995, hôn nhân do cả hai tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã PN, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau kết hôn cuộc sống vợ chồng cũng không được hạnh phúc, nguyên nhân là do anh B không lo làm ăn mà cứ cờ bạc gây nợ nần, chị đã nhiều lần khuyện nhủ, trả nợ cho anh và cho anh cơ hội sửa đổi để nuôi dạy các con nhưng anh vẫn không sửa. Hai vợ chồng đã đã ly thân từ tháng 01/2017 đến nay. Hiện tình cảm của chị đối với anh B không còn. Nay chị cương quyết xin được ly hôn. Anh B không đến Tòa và cũng không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Xét thấy đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị G.

[4] Về con chung: có 02 cháu tên Nguyễn Binh P, sinh ngày 19/9/2003 và Nguyễn Minh Q, sinh ngày 26/3/2015. Chị xin được nuôi hai con và không yêu cầu cấp dưỡng. Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/01/2019 cháu p có nguyện vọng xin được sống với mẹ do đó nghĩ nên giao cháu P cho chị G nuôi dưỡng là phù hợp.

[5] Về tài sản chung: chị G khai không có

[6] Về nợ chung: chị G khai không có nên không xem xét giải quyết.

[7] Đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đông (Ba trăm nghìn) đồng chị G phải nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56; 57; 81; 82; 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 227, 235 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Trúc G, cụ thể tuyên:

- Về hôn nhân: chị Trần Thị Trúc G được ly hôn với anh Nguyễn Văn B.

- Về con chung: có 02 cháu tên Nguyễn Binh P, sinh ngày 19/9/2003 và Nguyễn Minh Q, sinh ngày 26/3/2015. Chị G được nuôi hai con.

Ghi nhận việc chị G không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Không bên nào được ngăn cản quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một trong các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: không có

- Về nợ chung: Cả hai khai không có nên Tòa không xem xét.

Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Trần Thị Trúc G phải nộp là 300.000đông (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0019545 ngày 10/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về