Bản án 121/2019/HSST ngày 30/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 121/2019/HSST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 127/2019/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn B, sinh năm 1968, tại huyện Sg M, tỉnh Sơn La Trú tại: Bản L, xã Chiềng S, huyện Sg M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt nam; con ông Lò Văn D (đã chết) và bà Lò Thị Ă; bị cáo có vợ là Lò Thị L và 03 con. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 4/7/2019 cho đến nay; có mặt.

2. Lò Văn T, sinh năm 1984, tại huyện Sg M, tỉnh Sơn La Trú tại: Bản Cg, xã Chiềng S, huyện Sg M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 4/10; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt nam; con ông Lò Văn H (đã chết) và bà Lò Thị V; bị cáo có vợ là Lường Thị H và 02 con. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 4/7/2019 cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 08 giờ 00 phút, ngày 4 tháng 7 năm 2019, tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Đứa, xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã phát hiện thấy Lò Văn B, sinh năm 1968 ở bản L và Lò Văn T ở bản C đều ở xã Chiềng S, Sg M đi chung một xe mô tô có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính, qua kiểm tra, phát hiện thu giữ trong túi quần bên phải của T đang mặc 01 cục chất bột màu trắng (không có giấy bọc ngoài, T và B khai nhận là Heroine).

Ngoài ra còn thu giữ của tích 01 điện thoại di động hiệu VIVK màu hồng; thu giữ của B 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu đỏ-đen, BKS 26C1-094.38, 01 chiếc điện thoại di động hiệu KECHAODA. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng toàn bộ vật chứng.

Hi 10 giờ 00 phút ngày 5/7/2019 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ, kết quả: 01 cục chất bột liên kết màu trắng có khối lượng 0,11 gam, trích toàn bộ 0,11 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T.

Kết luận giám định số 1241 ngày 8/7/2019 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,11 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,11 gam, loại Heroine".

Tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã các bị cáo Lò Văn B và Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khong 06 giờ 30 phút ngày 4/7/2019 khi Lò Văn T ngủ dậy xem điện thoại thì thấy cuộc gọi nhỡ của Lò Văn B, T gọi lại thì B nói "có chỗ nào mua được ma túy sử dụng không, cậu cháu mình đi mua để cùng sử dụng", T trả lời "đi lên bản Sài Lương 2 tìm xem nếu được thì mua, còn nếu không được thì đi về, cậu đến nhà cháu đi", nói chuyện với B xong T đi ra khỏi nhà mang theo bật lửa ga cùng mảnh giấy bạc để trong túi quần phía trước bên phải và đi ra đường ở gần cổng nhà đứng đợi B, một lúc sau thấy B điều khiển xe mô tô BKS 26C1-094.38 đến rồi chở T đi đến bản Huổi Hịa, Chiềng Sơ thì B đổi cho T điều khiển xe còn B ngồi phía sau, khi đến đầu bản Sài Lương 2 T dừng xe và dựng xe ở đường, lúc này B lấy 50.000đ đưa cho T để mua ma túy, sau đó hai người đi bộ vào trong khu rừng tre thuộc bản Sài Lương 2, Chiềng Sơ, khi đi đến một khe suối thấy B không đi được nên T bảo B ở lại chờ, còn T đi tiếp vào khu rừng tre. Khi đi cách chỗ B khoảng 50m T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang chặt tre, T hỏi mua Heroine, người đàn ông đồng ý nên T lấy 50.000đ đưa cho người này, người đàn ông cầm tiền rồi đi vào phía trong bản, sau đó quay lại đưa cho T 01 cục Heroine (không có giấy bọc), T cầm cục Herine rồi quay ra chỗ B đang ngồi chờ, T lấy một ít Heroine ra cùng B sử dụng bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp, số Heroine còn lại T để vào túi quần phía trước bên phải đang mặc của T để mang về sử dụng tiếp, khi sử dụng xong T vứt mảnh giấy bạc và bật lửa đã hết ga xuống suối rồi cùng B đi ra chỗ để xe mô tô lấy xe đi về, khi hai người về đến khu vực bản Đứa, Chiềng Sơ thì bị tổ công tác Công an huyện Sông Mã và Công an xã Chiềng Sơ làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng của vụ án.

Bản Cáo trạng số: 128/CT-VKSSM ngày 9 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lò Văn B và Lò Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lò Văn B: Từ 20 đến 24 tháng tù;

Xử phạt: Lò Văn T: Từ 16 đến 20 tháng tù Đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Diễn biến tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Sông Mã lập hồi 08 giờ 00 phút ngày 4/7/2019. Vật chứng của vụ án là ma túy, loại Heroine. Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 4/7/2019 Lò Văn B, Lò Văn T đang cùng nhau tàng trữ ma tuý, loại Heroine có khối lượng 0,11 gam, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện và bị bắt quả tang.

[3] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ một năm đến năm năm. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

[5] Đánh giá vai trò của các bị cáo trong vụ án:

Bị cáo Lò Văn B có vai trò đầu vụ, chủ động rủ rê bị cáo Lò Văn T cùng đi mua ma tuý; bị cáo Lò Văn T giữ vai trò đồng phạm trong hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, có tổng khối lượng là 0,11 gam. Do đó bị cáo Lò Văn B phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn bị cáo Lò Văn T.

[6] Đánh giá về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lò Văn B, Lò Văn T có nhân thân tốt thể hiện việc các bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông dân tộc Mông là người đã bán ma tuý cho các bị cáo tại khu vực thuộc bản Sài Lương 2, xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã ngày 4/7/2019. Do không xác định được tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về xử lý vật chứng: Vật chứng đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã gồm: 01 túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, đã bóc mở; 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVK màu hồng, số IMEI 1: 841017708086597, số IMEI 2: 8410177107096; 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA màu đen, số IMEI 1: 863035023821418, số IMEI 2: 863035023821426.

- Đối với 01 túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, đã bóc mở là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVK màu hồng, số IMEI 1: 841017708086597, số IMEI 2: 8410177107096 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA màu đen, số IMEI 1: 863035023821418, số IMEI 2: 863035023821426 được xác định là tài sải của các bị cáo T và B và các bị cáo đã sử dụng để liên lạc cùng rủ nhau đi mua ma túy, nên cần tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo Lò Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; bị cáo Lò Văn T thuộc đối tượng hộ ngèo nên có thể được xem xét miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo: Lò Văn B, Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lò Văn B 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 4/7/2019.

Xử phạt: Lò Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 4/7/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu huỷ: 01 túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, đã bóc mở;

- Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVK màu hồng, số IMEI 1: 841017708086597, số IMEI 2: 8410177107096 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA màu đen, số IMEI 1: 863035023821418, số IMEI 2: 863035023821426 là phương tiện các bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội.

Nhng vật chứng trên theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29 tháng 10 năm 2019 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Án phí:

- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Lò Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

- Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Lò Văn T được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2019/HSST ngày 30/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về