Bản án 121/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 121/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/9/2019, tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 126/2019/TLST-HS ngày 21/8/2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2019/QĐXXST-HS ngày 12/9/2019 đối với bị cáo:

Trần Văn T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1976. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm Hanh, xã Hồng Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ là Nguyễn Thị Ng và 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không có. Hiện bị cáo tại ngoại, trước đó bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2019 đến ngày 20/8/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Có mặt.

* Người chứng kiến:

1. Anh Lê Đức C, sinh năm: 1984; Trú tại: xóm Hợp Thịnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

2. Chị Trần Thị Minh H, sinh năm: 1988; Trú tại: xóm Cẩm Trà, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do bản thân là đối tượng nghiện ma túy, nên khoảng 09 giờ 40 phút ngày 18/6/2019, Trần Văn T đi nhờ xe của một người đi đường từ nhà đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên để mua ma tuý sử dụng cho bản thân. Khi đến xóm Kim Tỉnh, T xuống xe và đi bộ vào một ngõ nhỏ phía bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ theo hướng Thái Nguyên đi Hà Nội. Tuyến đi vào trong ngõ khoảng 30m đến một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín phía bên tay trái theo hướng đi vào ngõ. Tại đây, T đưa 300.000đ (Ba trăm nghìn đ ồng) qua khe cửa phía dưới, sát nền bê tông vào trong nhà. Sau đó, có người cầm tiền và đưa cho T 02 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất rắn màu trắng đục (theo T khai là ma tuý loại heroine). Sau khi mua được ma tuý, T lấy 01 túi nilon màu đen gói 02 gói ma tuý vừa mua được lại và đi bộ ra bắt xe về.

Khong 10 giờ 25 phút cùng ngày, khi T đang đ ứng tại hành lang đường Quốc lộ 3 cũ thì bị lực lượng lượng Công an thị xã Phổ Yên phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Vt chứng của vụ án thu giữ gồm: 02 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất rắn màu trắng đục.

Tại Bản kết luận giám định số 953 ngày 26/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất rắn màu trắng đục trong mẫu K thu giữ của Trần Văn T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,741 gam”.

Tại bản cáo trạng số 124/CT-VKSPY ngày 20/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng đã bị thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Trần Văn T mức án từ 18 - 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K ghi hoàn trả 0,722 gam mẫu K còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Văn T; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi mẫu lưu kho.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận nội dung truy tố là đúng. Lời nói cuối cùng, bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Nhng người chứng kiến đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, kiểm sát viên, bị cáo đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vắng mặt những người chứng kiến. Xét việc những người chứng kiến vắng mặt nhưng trong hồ sơ đã có lời khai của họ nên sự vắng mặt họ không gây trở ngại cho quá trình xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét căn cứ Điều 293 BLTTHS xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật.

[2] Li khai nhận của bị cáo là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 25 phút ngày 18/6/2019, tại bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ hướng Thái Nguyên đi Hà Nội, thuộc xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Trần Văn T đã có hành vi tàng trữ trên người 0,741 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Cơ quan Công an thị xã Phổ Yên phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 124/CT-VKSPY ngày 20/8/2019 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Ni dung điểm c khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c. Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình lao động thuần tuý. Quá trình sinh sống, lao động tại địa phương không có tiền án, tiền sự. Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, do mắc nghiện nên đã dẫn bị cáo đến con đường phạm tội.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Đông được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì do có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là người có công với đất nước, do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy: Trong thời gian gần đây tình trạng phạm tội ma túy trên địa bàn thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng cả về số lượng tội phạm, tính chất phức tạp của hành vi phạm tội, là nguyên nhân gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để đảm bảo kỷ cương pháp luật và ngăn chặn tình trạng phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, mục đích mua ma túy về sử dụng không có mục đích mua, bán nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[7] Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K ghi hoàn trả 0,722 gam mẫu K còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Văn T; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi mẫu lưu kho. Xét đây là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số Heroine thu giữ của Trần Văn T, theo Tuyến khai mua ở ngôi nhà có cửa sắt đóng kín trong ngõ phía bên trái cách hành lang đường Quốc lộ 3 cũ hướng Thái Nguyễn đi Hà Nội thuộc khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên. Quá trình điều tra đến nay chưa làm rõ được nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành bản án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2019 đến ngày 20/8/2019.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K ghi hoàn trả 0,722 gam mẫu K còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Văn T;

01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi mẫu lưu kho.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 23/8/2019).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về