TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 121/2018/HSST NGÀY 13/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 13 tháng 9 năm 2018. tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2018/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/QĐ-HSST ngày 31 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: NGUYỄN THANH T. Sinh ngày 09 tháng 12 năm 1991. Nơi sinh:
Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: 7B - T, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng. Chỗ ở: 7B - T, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Lái xe. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Nguyễn Thành T, sinh năm 1962; Con bà: Đinh Thị Thanh N, sinh năm 1964. Hiện ở tại: 7B - T, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt ngày 23/5/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đồng, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh T là đối tượng nghiện chất ma túy (Methamphetamine) từ cuối năm 2017. Quá trình sử dụng ma túy, Tú có làm quen với một người có tên A (không rõ nhân thân, lai lịch) ở huyện Đ, Lâm Đồng. Ngày 20/5/2018, A và T đi nhậu với nhau xong thì cả hai cùng về nhà nghỉ mà A đã thuê từ trước ở đường H, Phường 6, thành phố Đ, Lâm Đồng. Tại đây, A có lấy ma túy của A ra sử dụng và cho T cùng sử dụng. Đến khoảng 15 giờ ngày 23/5/2018, T và A gặp nhau ở đường Đ, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng, A đưa trả cho T chiếc ví mà hôm trước T để quên tại nhà trọ của A và A có nói cho T biết trong ví có 01 gói ma túy, A bảo T cất đi, khi nào cần thì lấy ra để cả hai sử dụng chung thì T đồng ý và lấy chiếc ví bên trong có gói ma túy cất giấu vào trong túi quần đang mặc trên người. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, khi T đi về đến trước cổng nhà số 24C - T, Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng thì bị Công an Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng với tang vật.
Tại Kết luận giám định số 806/GĐ-PC54 ngày 25/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu chất ở dạng tinh thể đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 0,3750 gam là chất Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy, nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T khai nhận vào ngày 23/5/2018 bị cáo đã có hành vi nhận Methamphetamine của một đối tượng tên Anh, không rõ lai lịch, giao cho cất giữ 01 gói ma túy tại thành phố Đ, sau đó bị cáo đã tàng trữ với mục đích để sử dụng và khi bị cáo đang tàng trữ số ma túy này trong túi quần đang mặc thì bị Công an Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện và bắt giữ, thu giữ 01 gói ma túy T vừa nhận trước đó với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.
Tại Cáo trạng số 120/CT-VKS ngày 13/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 0,3750 gam Methamphetamine, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 18 đến 24 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật. Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng:
Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.
Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thanh T:
Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo lại là người nghiện chất Methamphetamine từ năm 2017 nên biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo nhận từ người khác và tàng trữ 0,3750 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Thanh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy trố và kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Về tình tiết định khung hình phạt:
Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy nhưng chỉ với khối lượng 0,3750 gam Methamphetamine, không có tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt nào theo qui định tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu bị bắt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Về áp dụng hình phạt bổ sung:
Xét hiện bị cáo không có việc làm ổn định, không xác định được bị cáo có nguồn thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng :
Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có: Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định; Một ví da màu đen hiệu Copelle đã cũ của bị cáo, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.
Về án phí:
Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] . Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2] . Áp điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2015.
[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu hủy: 02 phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định và 01 ví da hiệu Copelle đã cũ. (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Đ và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ ngày 14/8/2018).
[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 121/2018/HSST ngày 13/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 121/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về