Bản án 120/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 120/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 117/2020/TLST- HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo: Họ và tên: Xồng B C, tên gọi khác: Xồng Giống C;

Sinh ngày 06/6/1986 tại xã N2, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: bản BM, xã N2, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: lớp 07/12; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Xồng Nỏ L và bà Lầu Y K; có vợ là Lầu Y T và 02 con; tiền án: có 02 tiền án (ngày 29/7/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An kết án 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ra tù ngày 30/12/2014, đến ngày 28/3/2017 khi chưa được xóa án tích lại bị Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An kết án 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 09/4/2019, hiện chưa được xóa án tích); tiền sự: không; bị cáo bị bắt từ ngày 31/5/2020 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thị Th - Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Xồng Bá R, sinh năm 1979; Địa chỉ: bản BM, xã N2, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo cáo trạng số 115/CT-VKS-HS ngày 30/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An thì bị cáo Xồng B C đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố theo điểm g và điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Xồng B C đã thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Khoảng đầu tháng 5 năm 2020, Xồng B C thuê xe lai của một người đàn ông không quen biết đi từ nhà tại bản BM, xã N2, huyện KS, tỉnh Nghệ An đến bản T, xã NC, huyện KS, tỉnh Nghệ An để tìm mua ma túy. Khi đến nơi, Xồng B C gặp và mua của Cự Bá Ch 01 cục heroine với số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) và 02 túi ma túy tổng hợp với số tiền 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăm nghìn đồng). Mua được ma túy, Xồng B C thuê xe lai quay về nhà và cất dấu số ma túy vừa mua để sử dụng dần và đã sử dụng hết số heroine đã mua được.

Đến sáng ngày 31/5/2020, khi Xồng B C đang làm rẫy tại khu vực bản BM 2, xã N2, huyện KS thì bị tổ công tác Công an huyện KS phối hợp với Đồn biên phòng N2 - Bộ đội biên phòng tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang thu giữ 02 túi potylen màu xanh bên trong có chứa nhiều viên nén màu hồng (nghi là ma túy). Xồng B C thừa nhận đó là ma túy bị cáo mua về để sử dụng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 16 giờ 5 phút, ngày 31/5/2020 đã xác định: Số viên nén màu hồng trong gói bao potylen màu xanh thứ nhất có khối lượng 19,45 gam (Mười chín phẩy bốn mươi lăm gam), ký hiệu vật chứng số 1 (M1). Số viên nén màu hồng gói trong bao potylen màu xanh thứ hai có khối lượng 3,9 gam (Ba phẩy chín) gam, ký hiệu vật chứng số 2 (M2).

Kết luận giám định số 742/KL-PC09(MT) ngày 04/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An đã xác định: Hai mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Xồng B C gửi tới giám định là ma túy (methamphetamine). Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Xồng B C là 23,35 gam (Hai mươi ba phẩy ba lăm gam).

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Xồng B C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Xồng B C mức án từ 08 (Tám) đến 09 (Chín) năm tù, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo nhận tội và mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Xồng B C tại phiên tòa hôm nay cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng truy tố, như vậy đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 31/5/2020 tại khu vực bản BM 2, xã N2, huyện KS, tỉnh Nghệ An, bị cáo Xồng B C bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép 23,35 gam (Hai mươi ba phẩy ba lăm gam) ma túy methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, bản thân bị cáo đã hai lần bị kết án chưa được xóa án tích (ngày 29/7/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An kết án 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ra tù ngày 30/12/2014, đến ngày 28/3/2017 khi chưa được xóa án tích lại bị Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An kết án 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 09/4/2019, hiện chưa được xóa án tích) do đó hành vi của bị cáo lần này là chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự với các tình tiết định khung hình phạt là “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” và “Tái phạm nguy hiểm”. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất ma túy. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước nghiêm cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như sức khỏe của con người, làm băng hoại đạo đức, lối sống trong xã hội, là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép. Hành vi đó đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân, bản thân bị cáo đã hai lần bị kết án về tội phạm ma túy nhưng không lấy các lần bị kết án trước làm bài học cho mình để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội, chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật, do đó cần xử phạt bị cáo Xồng B C nghiêm khắc, tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra và nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài để tiếp tục cải tạo giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã có thái độ thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nương rẫy nên miễn hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông tên Cự Bá Ch, trú tại bản T, xã NC, huyện KS, tỉnh Nghệ An đã bán ma túy cho bị cáo Xồng B C. Quá trình điều tra Cự Bá Ch không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý.

[6] Vật chứng vụ án: Số ma túy methamphetamine đã thu giữ của bị cáo sau khi trích mẫu gửi đi giám định thì số còn lại có khối lượng 23,08 gam (Hai mươi ba phẩy không tám gam), đây là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Xồng B C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Xồng B C 08 (Tám) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 31/5/2020).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Xồng B C, bên trong chứa 23,08 gam (Hai mươi ba phẩy không tám gam) ma túy methamphetamine thu giữ của bị cáo. Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện KS quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 00 phút, ngày 30/7/2020.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Xồng B C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 23/9/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:120/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về