TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 120/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 117/2020/TLST-HS ngày 08/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2020/QĐXXST-HS ngày 10/9/2020 đối với bị cáo:
Bùi Văn Q, sinh năm 1985 tại Sơn La; nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã T, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; chỗ ở: Thôn S, xã L, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T và bà Tạ Thị S; có vợ là Lê Thị M, sinh năm 1991 và 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt, tạm giữ ngày 31/7/2020, tạm giam từ ngày 06/8/2020 đến nay; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Lê Thanh H, sinh năm 1990; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, Bùi Văn Q đang ở phòng trọ thì có nam thanh niên tên Tuấn (Q mới quen, không biết rõ tên tuổi, địa chỉ) điều khiển xe máy (không rõ BKS) đi đến rủ Q đi mua ma túy để sử dụng. Q đồng ý, nói: “Em có năm trăm nghìn”, Tuấn liền lấy điện thoại ra gọi cho ai đó rồi điều khiển xe chở Q đi đến khu vực ngõ 8, đường Trường Chinh thuộc tổ 6 phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý thì gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, đeo khẩu trang, Tuấn dừng xe lại nói với Q:“Chú vào gặp ông anh, đưa tiền cho ông ấy rồi lấy hàng”. Q xuống xe lấy ra 500.000 đồng đưa cho người đàn ông và được người này đưa lại 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, nói: “Hàng ở trong bao thuốc”, biết trong vỏ bao thuốc lá có ma túy, Q liền cầm lấy, giữ trong lòng bàn tay phải rồi lên xe cùng Tuấn đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi được một đoạn, Tuấn và Q bị lực lượng Công an phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Q xuống xe còn Tuấn bất ngờ tăng ga bỏ chạy thoát. Tại chỗ, Q tự giác lấy giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục, khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.
Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Văn Q và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen.
Tại bản Kết luận giám định số 140/PC09-MT ngày 03/8/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,213 gam, loại Heroine”.
Bản cáo trạng số 121/CT-VKS-PL ngày 07/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Bùi Văn Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Bùi Văn Q, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt Bùi Văn Q từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, tại khu vực tổ 6, phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Bùi Văn Q bị lực lượng Công an phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,213 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt:
Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án thật nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và tài sản riêng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.
[6] Đối với người thanh niên tên Tuấn và người đàn ông khoảng 40 tuổi ở khu vực ngõ 8, đường Trường Chinh, thành phố Phủ Lý theo bị cáo khai là người đã cùng đi mua ma túy với Q và người đã bán ma túy cho bị cáo để cất giấu, do Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh nhưng không xác định được đặc điểm nhân thân và địa chỉ của những người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.
[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi và 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Văn Q thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.
- Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Q phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2020.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại cho bị cáo Bùi Văn Q 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 863265043364137 và 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Bùi Văn Q.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 140/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.
Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 09/9/2020.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Bùi Văn Q nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 120/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 120/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về