TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 120/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 128/2019/TLST-HS ngày 10/10/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2019/QĐXXST-HS ngày 21/10/2019 đối với bị cáo:
Bành Hoài N (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 09/9/1970, tại huyện Quảng U, tỉnh Cao Bằng; Nơi ĐKHTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 6, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (Học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Bành Di (Đã chết) và bà Nông Thị L, sinh năm: 1950, vợ: Bế Hoài T, sinh năm 1978; bị cáo có 01 con, sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/5/2019 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 13 giờ 15 phút, ngày 31/5/2019 Tổ công tác Công an phường Chiềng Lề, phối hợp với Công an phường Quyết Tâm - Công an thành phố Sơn La, làm nghiệm vụ tại khu vực tổ 1, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, phát hiện bắt quả tang bị cáo Bành Hoài N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất cục bột màu trắng.
Bành Hoài N tự giác lấy từ túi quần phía trước, bên trái đang mặc ra giao nộp và khai nhận là Heroine, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân, ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Bành Hoài N.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa Bành Hoài N khai nhận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 30/5/2019 Bành Hoài N đón xe khách từ thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lên thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La sau đó bị cáo đón xe Buýt lên khu vực xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy. Đến nơi bị cáo xuống xe, đi bộ được một đoạn thì gặp một người nữ giới (bị cáo không biết tên, tuổi và địa chỉ), qua nói chuyện bị cáo mua được của người đó 01 gói Heroine với giá 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Sau khi mua được ma túy bị cáo cất giấu vào trong túi quần phía trước, bên trái đang mặc rồi đi bộ ra đường Quốc lộ 6 bắt xe Buýt về bến xe khách thành phố Sơn La. Đến nơi bị cáo xuống xe đi bộ ra khu vực cổng bến xe, thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng theo quy định.
Ngày 31 tháng 5 năm 2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: Số chất cục, bột màu trắng trong gói nilon màu trắng có khối lượng 16,27 gam, lấy 0,23 gam làm mẫu giám định, gửi Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kí hiệu N1, còn lại 16,04 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu N2.
Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 1363/QĐ đối với số ma túy thu giữ của bị cáo Bành Hoài N có phải là ma túy không? Loại ma túy gì? Khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu; Tổng khối lượng vật chứng thu giữ? vật chứng ký hiệu N1.
Ngày 02/6/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số: 988, kết luận “Mẫu giám định ký hiệu N1 là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,23 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 16,27 gam; loại Heroine” Tại phiên tòa bị cáo trình bày ý kiến giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Tại bản Cáo trạng số 95/CT-VKSTP ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Bành Hoài N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bành Hoài N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:
- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s, v khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Bành Hoài N từ 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng đến 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 31/5/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tuyên trả lại cho bị cáo 01 chứng minh tư nhân dân số 080347696 mang tên Bành Hoài N, quản lý, sử dụng.
Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở + 01 mảnh giấy nilon màu trắng + 16,04 gam Heroine.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Bành Hoài N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo Bành Hoài N khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:
Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.
Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 30 phút ngày 31/5/2019; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:
Ngày 31/5/2019 bị cáo Bành Hoài N đã có hành vi tàng trữ16,27 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.
Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằngbị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vitàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian dài là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo đã từng có thời gian phục vụ trong quân ngũ và có thành tích, xuất sắc trong công tác được tặng thưởng huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba và hạng nhì. Bố bị cáo được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, v khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, bản thân không có công việc và thu nhập ổn định và không có tài sản gì có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chứng minh tư nhân dân số 080347696 mang tên Bành Hoài N. Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Xét là giấy tờ hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó cần tuyên trả cho bị cáo Bành Hoài N quản lý, sử dụng.
Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu + 01 mảnh giấy nilon màu trắng + 16,04 gam Heroine, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng, do đó cần tuyên tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[5] Đối với người nữ giới đã bán ma túy cho bị cáo (như bị cáo đã khai), do bị cáo không biết họ, tên và địa chỉ của người này. Do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s, v khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Bành Hoài N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Bành Hoài N 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày: 31/5/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:
Tuyên trả lại cho bị cáo 01 (Một) tờ chứng minh nhân dân số 080347696 do Công an tỉnh Cao Bằng cấp ngày 04/4/2005 mang tên Bành Hoài N, quản lý, sử dụng.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc phong bì của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Bành Hoài N – Sinh năm: 1970. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 31/5/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu kho ký hiệu N2 = 16,04 gam” mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có một dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và 06 chữ ký, 06 dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Bành Hoài N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 120/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 120/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về