Bản án 120/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 120/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 15 tháng 10 năm: 1996, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường P, Phường c, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc T và bà Nguyễn Thị Kim Q; Có hai con tên Nguyễn Đào Hoàng K, sinh năm 2013 và Nguyễn Lâm Khả N sinh ngày 06/3/ 2016; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giam từ ngày 13/02/2019 đến ngày 16/02/2019, bị cáo được tại ngoại ; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 14/02/2019, Nguyễn Thị Thu T đem theo 02 gói ma túy cất giấu trong bóp rồi để vào túi xách để đi bán cho các đối tượng nghiện kiếm tiền tiêu xài. T đi đến khu vực đường P, quận G thì gặp Võ Minh Tr (sinh năm 1997, ngụ: đường T, Phường M, quận G) đang chạy xe máy, Tr dừng lại và rủ T đi nhậu, T đồng ý. Tr điều khiển xe máy chở T đến quán nhậu 3000 đường L, quận G và gặp Bùi Minh Th (sinh năm 1994, ngụ: xã Đ, huyện H). Tại đây cả ba ngồi nhậu thì Tr rủ Th và T đi đòi nợ cùng Tr, Th và T đồng ý. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, cả ba chạy xe đến nhà P (không rõ lai lịch) ở khu vực đường T, quận G để đòi nợ. Tại đây, Tr và Th xảy ra xô xát, cự cãi với người nhà P thì Công an phường L, quận G đến giải quyết và mời tất cả về trụ sở làm việc. Qua kiểm tra Công an phường L phát hiện trong bóp cá nhân T để trong giỏ xách có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, T khai là ma túy nên Công an tiến hành thu giữ, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 13/02/2019, T gọi điện thoại cho 01 thanh niên tên Th1 (không rõ lai lịch) để hỏi mua ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 400.000 đồng thì Th1 đồng ý. Sau đó, Th1 đến nhà T để giao số ma túy theo yêu cầu và nhận 400.000 đồng của T. Sau khi mua ma túy xong, T chia thành 02 túi nylon nhỏ chứa số ma túy rồi cất giấu vào trong bóp tiền nhằm mục đích bán lại cho các đối tượng nghiện 300.000 đồng một gói để thu lợi nhưng chưa bán được thì bị bắt như nêu trên. Thảo khai Bùi Minh Th và Võ Minh Tr không biết việc T cất giấu ma túy trong giỏ xách. Lời khai của T phù hợp với lời khai của Th, Tr nên không có căn cứ xác định Th, Tr là đồng phạm với Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Vật chứng thu giữ: 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phomg thành một gói, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thị Thu T và hình dấu Công an phường L, quận G. Căn cứ Kết luận giám định số 565/KLGĐ-H, ngày 20/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong hai gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng: 0,4886 gam loại Methamphetamine. Một quẹt ga, 01 nắp chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; 01 điện thoại di động hiệu Mobell số sim: 0777901343.

Xác minh chủ thuê bao số điện thoại 0783739387 tại Trung tâm thông tin di động Mobifone nhưng chưa có kết quả trả lời. Khi nào có căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Th1 đã bán ma túy cho T do chưa xác định được nhận thân lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 98/CTr-VKS, ngày 24/5/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Nguyễn Thị Thu T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng khoản 1 khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

- Phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy và công cụ sử dụng ma túy thu giữ. Tịch thu và sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Mobell số sim: 0777901343 Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

[2] Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Thị Thu T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng, mua bán ...... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để bán, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay duy trì sự mất ổn định trật tự xã hội, duy trì và tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội phát triển làm ảnh hưởng đến việc giảm sút sức lao động trong toàn xã hội… Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cũng nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017, Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định phạt bị cáo mức thấp nhất là 5.000.000 đồng.

[6] Về xử lý vật chứng: Hai gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong thành một gói, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thị Thu T và hình dấu Công an phường l, quận G. Theo kết luận giám định số 565/KLGĐ-H, ngày 20/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong hai gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng: 0,4886 gam loại Methamphetamine. Đây là vật nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy. Đối với một quẹt ga, 01 nắp chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa là dụng cụ phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mobell số sim: 0777901343 là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

[7] Đối với Th, Tr không liên quan đến việc T tàng trữ để bán lại cho người nghiện nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho T sử dụng số điện thoại 0783739387 qua xác minh Công ty điện thoại Mobifone chưa trả lời nên chưa xác định được lai lịch nên không có căn cứ để xử lý, khi nào xác định được xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bắt chấp hành án được cấn trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 13/2/2019 đến ngày 16/02/2019.

Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu T nộp phạt 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu hủy một gói niêm phong, bên trong có 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong thành một gói, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thị Thu T và hình dấu Công an phường L, quận G; một bật lửa gas, 01 nắp chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc 01 điện thoại di động hiệu Mobell số sim: 0777901343.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 48/PNK, ngày 18/3/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Dân sự;

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo Nguyễn Thị Thu T không nộp số tiền phạt nêu trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự. Việc thi hành án được thực hiện tại Cơ quan thi hành án có thẩm quyền Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:120/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về