Bản án 119/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 119/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 126/2020/HSST ngày 26/8/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2020/QĐXXST-HS ngày 11/9/2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Quang T, sinh năm 1993 tại xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang; Nơi đăng ký HKTT: thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang; Nơi ở khi phạm tội: thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Nguyễn Quang L và con bà Thân Thị H; Có vợ (đã ly hôn): Dương Thị H và có 01 con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Tại Quyết định số 3769 ngày 14/10/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 01 năm. Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ- Công an huyện Việt Yên (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Thân Thị H, sinh năm 1974 (vắng mặt).

2/ Ông Nguyễn Quang L, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Đều có địa chỉ: Thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

3/ Chị Vũ Thị M, sinh năm 1991; Địa chỉ: NĐ, xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong đầu tháng 5 năm 2020, trong lúc ngồi uống nước tại quán nước vỉa hè đường Quốc lộ 37 (khu vực đối diện với cổng Công ty may H) thuộc địa phận thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang, Nguyễn Quang T- sinh năm 1993 (nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang; chỗ ở: thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang) nghe được mọi người nói chuyện về một người đàn ông tên là B có ma túy bán. Do là người nghiện ma túy nên T đã xin số điện thoại của người đàn ông này. Sau khi được một người (T không biết tên, tuổi và địa chỉ) cho số điện thoại 0966.119.799, T lưu số điện thoại này vào danh bạ điện thoại của mình để khi nào có nhu cầu sử dụng ma túy thì T sẽ liên lạc để mua ma túy. Khoảng 19 giờ ngày 11/5/2020, T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp sim thuê bao số 0987.136.193 gọi điện vào số điện thoại 0966.119.799 thì thấy có một người đàn ông nghe máy. T đặt vấn đề với người đàn ông này mang đến khu vực trước cửa nhà nghỉ H (của gia đình T) ở rìa đường Quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang bán cho T 100.000 đồng tiền ma túy Heroin, người này đồng ý và hẹn 10 phút sau sẽ mang ma túy đến cho T. Khoảng 19 giờ 10 phút cùng ngày, khi T đang đứng ở sân (phía trước cửa nhà) thì nhận được điện thoại của người đàn ông tên là B gọi T ra lấy ma túy, cùng lúc này T nhìn thấy có một chiếc xe ô tô loại 4 chỗ ngồi, màu sơn trắng (T không để ý nhãn hiệu và biển số xe) đi đến, bấm còi và dừng lại ở rìa đường Quốc lộ 37 (phía trước cửa nhà nghỉ H). T biết đó là xe của người đàn ông có tên là B mang ma túy đến bán cho T nên T đi bộ ra gần vị trí chiếc xe ô tô. Khi T đi đến gần chỗ chiếc xe ô tô, người đàn ông ngồi trong xe bấm hạ kính chắn gió cửa xe xuống, T đưa cho người đàn ông ngồi trong xe số tiền 100.000 đồng (qua chỗ kính chắn gió cửa xe đã được hạ xuống), người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho T 01 túi ma túy (túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong chứa 01 gói giấy mặt ngoài màu trắng mặt trong màu vàng bên trong chứa chất cục bột màu trắng), sau đó người lái xe điều khiển xe đi. T cầm túi ma túy vừa mua được trên tay trái và đút vào bên trong túi phía trước bên trái quần đang mặc rồi đi vào nhà. Do khi T đi ra mua ma túy đã bị bà Thân Thị H- sinh năm 1974 (là mẹ đẻ T) phát hiện nên khi T quay vào đến sân, bà H yêu cầu T lấy túi ma túy từ bên trong túi quần ra cho bà H kiểm tra. T to tiếng, ông Nguyễn Quang L- sinh năm 1972 (là bố đẻ T) từ bên trong nhà đi ra và cùng với bà H yêu cầu T bỏ túi ma túy T cất giấu ở trong người ra để kiểm tra. T thừa nhận về việc mình vừa mua ma túy để sử dụng, đồng thời lấy túi ma túy từ bên trong túi quần đang mặc ra đưa cho bà H và ông L xem. Bà H, ông L đã khuyên và đưa T đến Công an xã V, huyện V đầu thú, giao nộp túi ma túy trên. Công an xã V đã báo cho Cơ quan điều tra Công an huyện Việt Yên đến lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú và thu giữ túi ma túy do T tự nguyện mang đến giao nộp, niêm phong trong phong bì ký hiệu “ĐT”.

Ngày 12/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang giám định số ma túy thu giữ được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “ĐT”.

Tại Kết luận giám định số 581/KL-KTHS ngày 13/5/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (Một) phong bì thứ có ký hiệu “ĐT” đã được niêm phong gửi giám định: Cht cục bột màu trắng đựng trong 01 (Một) gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng được đựng trong 01 (Một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 0,145 gam, loại Heroine.

Ngày 13/5/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Việt Yên đã thu giữ của bà Thân Thị H 01 chiếc USB, bên trong có chứa 01 File dữ liệu ghi lại hình ảnh được trích xuất từ Camera giám sát của nhà nghỉ H hướng ra đường Quốc lộ 37, tại thời điểm từ khi Nguyễn Quang T đi ra rìa đường Quốc lộ 37 mua ma túy của người ngồi trong chiếc xe ô tô màu trắng đến khi T lấy gói ma túy từ bên trong túi quần ra đưa cho bà H và ông L kiểm tra.

Ngày 17/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tổ chức thực nghiệm điều tra, cho T diễn lại hành vi T từ trong sân đi ra rìa đường Quốc lộ 37 mua ma túy của người ngồi trong chiếc xe ô tô màu trắng, sau đó T cất giấu túi ma túy vừa mua được vào bên trong túi phía trước bên trái quần đang mặc rồi đi vào trong nhà thì bị bà H phát hiện và cùng với ông L yêu cầu T lấy gói ma túy từ bên trong túi quần ra đưa cho bà H và ông L kiểm tra. Kết quả thực nghiệm điều tra phù hợp với lời khai của Nguyễn Quang T, bà Thân Thị H, ông Nguyễn Quang L và vật chứng đã thu giữ.

Đi với người đàn ông đã bán ma tuý cho Nguyễn Quang T, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh qua Công an xã V xác định: tại khu vực vỉa hè đường Quốc lộ 37 (khu vực đối diện với cổng Công ty may H) thuộc địa phận thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang không ai biết và không có người nào có đặc điểm như T đã khai có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy, Cơ quan điều tra tách các tài liệu liên quan đến người đàn ông này ra khỏi hồ sơ vụ án tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Đi với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, gắn sim thuê bao số 0987.136.193 của Nguyễn Quang T sử dụng để liên lạc khi mua ma túy ngày 11/5/2020. Do bực tức về việc T sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc mua ma túy nên sau khi T đến Cơ quan Công an đầu thú, ông Nguyễn Quang L đã lấy chiếc điện thoại này từ bên trong phòng ngủ của T và đập vỡ chiếc điện thoại này, sau đó vứt ra rìa đường Quốc lộ 37 (khu vực trước cửa nhà nghỉ H), Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả.

Đi với thuê bao điện thoại số 0966.119.799, quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là chị Vũ Thị M- sinh năm 1991, trú tại thôn NĐ, xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên, chị M trình bày chị đã bị mất chiếc điện thoại có gắn sim thuê bao này từ cuối tháng 4 năm 2020. Hiện nay ai đang sử dụng thuê bao điện thoại số 0966.119.799 chị M không biết.

Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKS ngày 24/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố Nguyễn Quang T ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang T thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thừa nhận số lượng chất ma túy 0,145 gam Heroine bị thu giữ khi bị bắt là của bị cáo do bị cáo mua để sử dụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu đề nghị gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T từ 12 tháng tù đến 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên là hợp pháp, không có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang T thừa nhận đã mua chất ma túy Heroine để sử dụng, số lượng chất ma túy bị thu giữ là của bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng của vụ án, kết luận giám định và lời khai của người tham gia tố tụng khác, các tài liệu khác thu thập được, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 10 phút ngày 11/5/2020, tại khu vực trước cửa nhà nghỉ H của gia đình Nguyễn Quang T ở thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang, Nguyễn Quang T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,145 gam chất ma túy Heroine, với mục đích để sử dụng thì bị bà Thân Thị H (mẹ đẻ T) phát hiện, động viên, đưa T đến Cơ quan Công an đầu thú và giao nộp toàn bộ số ma túy nêu trên.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo mua chất ma túy mục đích để sử dụng với số lượng thu được là 0,145 gam Heroine, nên Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ chất ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những tệ nạn xã hội cần bài trừ bởi nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người..., là nguyên nhân dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng rất xấu tới đời sống xã hội. Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh, cai nghiện ma túy nhưng bị cáo không lấy đó là bài học để rèn luyện trở thành người tốt mà lại thực hiện hành vi phạm tội, do vậy cần xử lý nghiêm bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu vì năm 2013 bị đưa đi cơ sở chữa bệnh bắt buộc.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Quang T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Nguyễn Quang T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tự nguyện đến Cơ quan Công an đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và “Đầu thú” theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Số lượng chất ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo và người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: ngày 12/5/2020.

[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ 01 phong bì thư được niêm phong dán kín, có ký hiệu "ĐT", một mặt có 05 dấu giáp lai của Công an xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang, một mặt có 04 dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của những người có liên quan (bên trong có 0,126 gam chất ma túy Heroine còn lại sau giám định).

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:119/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về