TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 119/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Trong ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2017/HSST ngày 13/9/2017 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trần Ngọc H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1988 tại Kiên Giang; HKTT: Ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước. Chỗ ở: như trên; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Trần Văn H, sinh năm 1956 và bà Lê Thị Ngọc V (đã chết) có vợ là Đào Thị B, sinh năm 1993 (đã ly hôn); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/5/2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Đinh Tuấn A; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1980 tại Thái Bình; HKTT: Thôn B, xã H, huyện T, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: Ấp M, xã T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 7/12; Con ông: Đinh Tuấn C, sinh năm 1953 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1956 có vợ là Dương Thị Hồng L, sinh năm 1982 và 02 con lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/5/2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Nguyên đơn dân sự: Công ty TNHH MTV DV-TM môi trường T Đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thanh L – Giám đốc (vắng mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Đặng Văn N, sinh năm 1984 (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp N, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh
+ Nguyễn Thị Hằng N, sinh năm 1975 (có mặt)
Nơi cư trú: Tổ H, khu phố T, phường X, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước
+ Trần Ngọc P, sinh năm 1984 (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước
+ Nguyễn Văn L, sinh năm 1988 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp H, xã T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước
+ Hoàng Thị U, sinh năm 1988 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp M, xã T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước
+ Đoàn Văn D, sinh năm 1994 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Khu phố P, phường T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước
- Người làm chứng:
+ Võ Thanh B, sinh năm 1993 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Khu phố T, phường X, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước
+ Kim T, sinh năm 1998 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp N, xã T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 25/3/2016, công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên thương mại - dịch vụ P (công ty P) do bà Nguyễn Thị Hằng N làm Giám đốc có ký hợp đồng vận chuyển rác cho Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất giày dép G (công ty G) thuộc Khu công nghiệp Đ tọa lạc tại xã T, thị xã Đ, Bình Phước với thời hạn là 01 năm. Sau khi ký hợp đồng thì bà N có giao cho anh Trần Ngọc P trực tiếp quản lý công việc thu gom rác tại công ty G rồi về báo lại cho bà N. Trong hợp đồng có ghi rõ là khi bên nào chấm dứt hợp đồng thì phải báo trước cho bên còn lại biết để giải quyết, sắp xếp công việc của mỗi bên. Đến ngày 25/3/2017 khi hết hạn hợp đồng với công ty P thì công ty G không báo cho bà N biết mà lại ký hợp đồng mới với công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên dịch vụ - Thương mại môi trường T (công ty T) có địa chỉ tại ấp H, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Thanh L làm Giám đốc để thu gom rác cho công ty. Khi đã hết hợp đồng nhưng vẫn không thấy thông báo gì từ công ty G nên P vẫn cho công nhân lên công ty G để gom rác thì thấy có xe của công ty T đến gom rác. Do vậy, anh P nói lại cho bà N biết, đồng thời khi có xe rác lên thì anh P và bà N đã chỉ đạo cho anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1980 là lái xe của công ty, điều khiển xe ô tô tải cùng với Trần Ngọc H (em trai của P) nhiều lần lên chặn xe của công ty T không cho gom rác. Ngoài ra, vào một ngày đầu tháng 4 năm 2017, anh P đã nói với Trần Ngọc H đi đến gặp Đinh Tuấn A là bạn quen biết của anh P và H để cùng Tuấn A đến chặn xe ô tô tải của công ty T. Do vậy, H đã điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đón Tuấn A đi chặn xe nhưng lúc này đã có xe của công ty P đã đến chặn trước nên H và Tuấn A đi về. Sau khi bị chặn xe nhiều lần thì công ty T đã trình báo Công an xã Tiến Thành để xử lý. Đến ngày 14/4/2017, bà N đã được Công an xã Tiến Thành mời lên xã cho cam kết không gây ảnh hưởng đến công việc của công ty T thì bà N đã viết cam kết không tái phạm nữa cho đến khi giải quyết xong với công ty G. Sau khi cam kết thì bà N vẫn yêu cầu P theo dõi xem có xe của công ty nào tới lấy rác nữa hay không, nếu có thì tìm cách đừng để công ty này đến lấy rác cho đến khi giải quyết xong với công ty G thì P đồng ý. Sau đó, P gọi điện cho H tiếp tục theo dõi rồi báo lại cho P thì H đồng ý. Sau đó, H đã liên hệ với anh Nguyễn Văn L là bảo vệ của công ty G và nhờ anh L nếu có xe ô tô của công ty T vào gom rác thì gọi điện thoại báo cho H biết thì anh L đồng ý. Đến khoảng 07 giờ 00 phút ngày 18/4/2017, phát hiện anh Đặng Văn N điều khiển xe ôtô biển số 51C-771.24 của công ty T đến công ty G để chở rác nên anh L gọi điện thoại báo cho H, thì H đã gọi điện thoại báo cho anh P nên anh P nói với H lần này phải dùng biện pháp mạnh hơn lần trước để hù dọa không cho xe ô tô của công ty T không đến lấy rác nữa thì H đồng ý. Lúc này, Hoài đến gặp Tuấn A và nhờ ném đá vào xe ô tô của công ty T để hù dọa làm cho họ sợ không đến chở rác nữa, đồng thời cung cấp đặc điểm và biển số xe ô tô để Tuấn A thực hiện thì Tuấn A đồng ý. Sau đó, Tuấn A điều khiển mô tô xe Exciter biển số 93M1-186.41 (xe mô tô mượn của chị Hoàng Thị U, sinh năm 1988) đến cổng công ty G. Đến nơi, Tuấn A phát hiện chiếc xe ô tô tải HINO màu trắng, biển số 51C-771.24 do anh N điều khiển đang từ trong công ty G ra. Lúc này,Tuấn A dừng xe nhặt 01 cục đá kích thước 08 x 11cm có sẵn ở bên lên đường để trên gác ba ga giữa xe mô tô rồi tiếp tục điều khiển đến gần, theo hướng ngược chiều với xe ô tô của anh N. Khi đến gần khoảng cách từ 3 đến 4m thì Tuấn A liền dùng tay trái bóp côn tay xe mô tô giữ thăng bằng, còn tay phải cầm lấy cục đá ném thẳng vào kính chắn gió phía trước bên trái làm vỡ và thủng kính, cục đá dính vào trong đầu xe ô tô biển số 51C-771.24. Sau khi ném đá xong, Tuấn A điều khiển xe mô tô về trả cho chị U. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, H gọi điện thoại cho Tuấn A, thì Tuấn A nói đã ném đá làm bể kính xe ô tô của công ty T xong, sau đó H đã gọi điện thoại báo lại cho anh P biết. Sau khi xe ô tô bị ném đá làm bể kính thì anh N đến Công an xã Tiến Thành trình báo.
Vật chứng vụ án: Ngày 19/4/2017, Trần Ngọc H, chị Nguyễn Thị Hằng N và anh Trần Ngọc P giao nộp: 01 điện thoại di động hiệu Microsoft 1067, màu đen, có gắn sim số 0941656477; 01điện thoại di động hiệu Samsung GT 18552, màu đen, sử dụng sim 1 số 0933529298, sim 2 số 0972536747 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37f, màu hường, có gắn sim 1 số 0988977488 và sim 2 số 0918684265.
Ngày 16/5/2017, Đinh Tuấn A đầu thú.
Khám nghiệm hiện trường thu giữ 02 (hai) cục đá: 01 cục kích thước 08 x 11cm, hình dạng lồi lõm, màu vàng xám và 01 cục hình dạng tương tự.
Ngày 19/4/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đồng Xoài có quyết định trưng cầu định giá tài sản đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đồng Xoài xác định giá trị thiệt hại đối với 01 tấm kính chắn gió của xe ô tô biển số 51C-771.24.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KLĐG ngày 20/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đồng Xoài, kết luận: “01 tấm kính chắn gió loại 8 ly 2 lớp màu trắng của xe ô tô tải hiệu Hino loại 15 tấn, biển số 51C-771.24 có giá trị 22.023.686 đồng (Hai mươi hai triệu không trăm hai mươi ba ngàn sáu trăm tám mươi sáu đồng)”.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Ngọc P và chị Nguyễn Thị Hằng N đã đồng ý đứng ra bồi thường thay cho bị can Đinh Tuấn A và Trần Ngọc H với số tiền 35.000.000Đ (ba mươi lăm triệu đồng) như theo yêu cầu đại diện ủy quyền của công ty T nhưng hiện nay chưa bồi thường.
Tại bản Cáo trạng số 101/CTr-VKS ngày 11/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài đã truy tố bị cáo Đinh Tuấn A và Trần Ngọc H về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 143 BLHS.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thay đổi tội danh truy tố đối với các bị cáo từ tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự sang tội “Cố ý làm hư hòng tài sản” theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự và thay đổi nội dung bồi thường thiệt hại từ nội dung “anh P, chị N chưa bồi thường” sang nội dung “anh P, chị N đã bồi thường và đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 143; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33; Điều 45, Điều 53 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H mức án từ 09 đến 12 tháng tù.
Xử phạt phạt bị cáo Đinh Tuấn A mức án từ 09 đến 12 tháng tù.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Tại phiên tòa các bị cáo Đinh Tuấn A, Trần Ngọc H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng số 101/CTr – VKS ngày 11/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước truy tố.
Xét lời khai nhận tội của các bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng vụ án, đồng thời phù hợp với kết luận của đại diện Viện kiểm sát cùng các chứng cứ tài liệu được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/4/2017, Trần Ngọc H có nhờ Tuấn A ném đá vào kính xe ô tô biển số 93C – 771.24 của Công ty T do anh Đặng Văn N điều khiển vì Công ty T có mâu thuẫn trong làm ăn với anh của H. Sau khi được H nhờ thì Tuấn A đã dùng cục đá có kích thước 8x11cm ném thẳng vào kính chắn gió phía trước của xe 93C – 771.24. Tài sản bị thiệt hại là 22.023.686 đồng.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.
Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo nhận thức được việc dùng đá ném vào tài sản người khác có khả năng gây thiệt hại đến tài sản của người khác nhưng chỉ vì mâu thuẫn giữa anh các bị cáo mặc dù không được anh các bị cáo nhờ nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi.
Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Đinh Tuấn A, Trần Ngọc H phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn trong đó bị cáo H là người giữ vai trò chính, chính bị cáo là người trực tiếp liên lạc và kêu Tuấn A thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, trước đây đã từng bị xử phạt về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” đã được xóa án tích. Vì vậy, cần xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.
Đối với bị cáo Tuấn A là đồng phạm giúp sức tích cực, khi được H nhờ ném đá vào xe ô tô bị cáo đồng ý và chính bị cáo là người trực tiếp ném đá vào xe ô tô. Vì vậy, cũng cần xét xử bị cáo mức án tương xứng với tính chất của hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
Tuy nhiên, khi lượng hình xét các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động người nhà bồi thường khắc phục hậu quả cho phía nguyên đơn dân sự và phía bên nguyên đơn dân sự cũng có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo H bị bệnh nhồi máu não bán cầu trái. Bị cáo Tuấn A có con nhỏ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo. Xét các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, vì vậy cần xét xử các bị cáo mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
Kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vật chứng vụ án:
Đối với 02 (hai) cục đá: 01 cục kích thước 08 x 11cm, hình dạng lồi lõm, màu vàng xám và 01 cục hình dạng tương tự vật chứng vụ án cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với xe mô tô biển số 93M1 – 186.41 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đồng Xoài đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đoàn Văn D theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý lại.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Microsoft 1067, màu đen đây là phương tiện bị cáo H dùng liên lạc với Tuấn A để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01điện thoại di động hiệu Samsung GT 18552, màu đen của chị N và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37f, màu hường của P đây là tài sản riêng của chị N và P không liên quan đến vụ án nên cần trả lại theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Nguyên đơn dân sự đã nhận đủ số tiền bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc H và Đinh Tuấn A phạm “Tội cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 143; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2017.
Xử phạt bị cáo Đinh Tuấn A 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2017.
[2] Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.
[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41; Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tiêu hủy 02 (hai) cục đá: 01 cục kích thước 08 x 11cm, hình dạng lồi lõm, màu vàng xám và 01 cục hình dạng tương tự.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Microsoft 1067, màu đen.
Trả lại cho chị Nguyễn Thị Hằng N 01 điện thoại di động hiệu Samsung GT 18552, màu đen.Trả lại cho anh Trần Ngọc P 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37f, màu hường.
[4] Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).
[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án. Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương./.
Bản án 119/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 119/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về