Bản án 117/2019/HSST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 117/2019/HSST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 104/2019/HSST ngày 12 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Đức Ch (tên gọi khác: Không); sinh ngày 10 tháng 9 năm 1968 tại huyện D, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 7, xã DX, huyện D, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Đức L, sinh năm 1936 và con bà: Ngô Thị H, sinh năm 1936; vợ: Võ Thị S, sinh năm 1973 (đã chết); con: 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2001; tiền sự: không, tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 07/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 08/5/2018.

Nhân thân:

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 25/1989/HSST ngày 30/9/1989 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Nghệ An xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân”.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 7/1994/HSST ngày 10/3/1994 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Gây rối tự công cộng”.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 17/1995/HSST ngày 31/5/1995 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 65/1997/HSST ngày 24/12/1997 của Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 30 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 66/2003/HSST ngày 25/9/2003 của Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08/5/2019, Lê Đức Ch bắt xe lai từ nhà lên huyện Y, tỉnh Nghệ An với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến đèn xanh, đèn đỏ thuộc xã TT, huyện Y, tỉnh Nghệ An, Ch xuống xe và bảo người lái xe lai đứng chờ, còn Ch đi bộ đến gặp bạn nghiện tên D (không rõ họ tên, địa chỉ). Ch nói với anh D "mi mua hộ tau 400.000 đồng ma túy". D đồng ý và cầm 400.000 đồng Ch đưa rồi đi đâu khoảng 20 phút sau quay lại đưa cho Ch 01 gói ma túy, bên ngoài gói bằng mảnh giấy trắng. Ch cầm gói ma túy trên tay đi đến chỗ người xe lai nói chở về nhà. Khi về đến nhà, Ch mở gói ma túy đó lấy một ít sử dụng, số ma túy còn lại Ch chia thành 06 gói nhỏ giống nhau bỏ vào ống nhựa keo con voi màu trắng, giấu ở lưng quần đùi mặc trên người rồi đi ngủ.

Đến khoảng 11 giờ 30 ngày 09/5/2019 khi Ch chuẩn bị lấy ma túy ra để sử dụng thì bị lực lượng công an huyện D, tỉnh Nghệ An phát hiện, bắt quả tang thu giữ ở cạp quần đùi Ch đang mặc 01 ống nhựa màu trắng, bên trong có chứa 06 gói ma túy có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được gói bằng mảnh giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Lê Đức Ch về trụ sở Công an huyện D để tiếp tục, điều tra làm rõ.

Kết luận giám định số 738/KL-PC09 (MT) ngày 12/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lê Đức Ch gửi tới giám định là ma túy (Heroin), có khối lượng 0,15 gam.

Bản cáo trạng số 115/CT-VKSDC ngày 07/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo: Lê Đức Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của Lê Đức Ch.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, Lê Đức Ch khai nhận: Vào khoảng 20 giờ ngày 8/5/2019 bị cáo mua 400.000 đồng ma túy của D ở huyện Y để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/5/2019 tại nhà ở của Lê Đức Ch thuộc xóm 4, xã DX, huyện D, tỉnh Nghệ An. Lê Đức Ch bị lực lượng Công an huyện D, tỉnh Nghệ An kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang thu giữ ở cạp quần đùi bị cáo đang mặc một ống nhựa màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. Kết luận giám định số 738/KL-PC09 (MT) ngày 12/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lê Đức Ch gửi tới giám định là ma túy (Heroin), có khối lượng 0,15 gam.

Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích mua bán hay vận chuyển. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Đức Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu từ năm 1989 đến năm 2003 đã bị Tòa án nhân dân huyện D xét xử 5 lần về các tội “Cướp tài sản của công dân”, “Gây rối trật tự công cộng”, “Chống người thi hành công vụ” và tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Ngày 07/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện D xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành án xong ra trại ngày 8/5/2018, chưa được xóa án tích nhưng nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng”, do dó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Trong vụ án này còn có đối tượng tên D là người mua hộ ma túy cho Ch (theo lời khai của Lê Đức Ch) nhưng không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan CSĐT Công an huyện D không có căn cứ điều tra để xử lý.

[5] Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo vật chứng gồm: 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí hình sự: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Lê Đức Ch phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đức Ch 18 (mười tám) tháng tù. Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/5/2019.

Vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật chứng vụ án. Toàn bộ vật chứng hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo phiếu nhập kho số NK00107 ngày 09 tháng 8 năm 2019.

Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Lê Đức Ch phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm .

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2019/HSST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:117/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về