Bản án 116/2019/HSST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 116/2019/HSST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Uông Bí công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 94/2019/HSST ngày 23/08/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 111/QĐXX ngày 03/10/2019, quyết định hoãn phiên tòa số 08/HSST ngày 18/10/2019 đối với bị cáo:

Trương Thạch N ; Tên gọi khác: Trương Thành N và Trương Văn N; sinh ngày: 23/01/1967. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn L, xã Đ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh . Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Công T và bà Nguyễn Thị B ; Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ hai. Vợ là Đỗ Thị Th, có 04 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2005. Tiền án, tiền sự : Không có.

Nhân thân:

+ Năm 1998 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, xử phạt 9 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/6/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

Ngưi chứng kiến:

+ Anh Hoàng Văn Th – sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Tổ 13B, khu 4, phường T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

+ Anh Nguyễn Duy T – Sinh năm 1979

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 2, khu P, phường Đ, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh,vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 15 phút ngày 03 tháng 6 năm 2019, tổ công tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Uông Bí phối hợp cùng với Công an phường Đ làm nhiệm vụ tại tổ 2, khu P, phường Đ, Uông Bí phát hiện, bắt quả tang Trương Thạch N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng kích thước (4x8)cm, bên trong có chất tinh thể màu trắng, N dùng tay trái thả xuống nền đất cách vị trí N đứng 30cm, N khai đây là ma túy dạng đá của mình; 01 xe mô tô Yamaha Taurius màu đen BKS 38K-5914; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen; 10 ống hút màu trắng dài 20cm.

Kết luận giám định số 454/GĐMT ngày 06/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: vật chứng gửi giám định (là chất tinh thể màu trắng thu của N) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,048g.

Quá trình điều tra, Trương Thạch N khai nhận: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 03/6/2019, N đang ở nhà thì có người quen của mình là Thông (là bạn quen biết từ trước, hiện đang thuê trọ tại phường Đ, Uông Bí) gọi điện thoại nhờ N mua hộ “1g” ma túy đá, N đồng ý. N điều khiển xe mô tô Yamaha Taurius màu đen BKS 38K-5914 đến nhà một người tên Hạ (ở xã Đ, Đông Triều), mua của người này “1g” ma túy với giá 1.200.000đ, rồi mang số ma túy này đến nhà trọ của Thông ở tổ 2, khu P, Đ. Khoảng 15 giờ 05 phút, khi đến ngõ nhà anh Thông, thì đúng lúc này, lực lượng Công an thành phố Uông Bí, phối hợp cùng Công an phường Đ tiến hành kiểm tra N, phát hiện, bắt quả tang Bản Cáo trạng số 102/KSĐT-HS ngày 22/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Trương Thạch N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Trương Thạch N từ 18 (Mười tám ) tháng tù đến 24 (Hai mươi bốn ) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 03/6/2019.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 454/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, 10 ống hút màu trắng dài khoảng 20cm đường kính khoảng 0.5cm, 01 sim điện thoại số 0362821967.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphon vỏ màu đen số IMEI 012430008861390.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Mặc dù vắng mặt tại phiên tòa xong lời khai của những người chứng kiến anh Hoàng Văn Th, anh Nguyễn Duy T trong quá trình điều tra được chứng kiến cơ quan công an bắt giữ N, thu giữ vật chứng như đã nêu trên phù hợp với lời khai của bị cáo .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định, tài liệu, chứng cứ, của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tài liệu chứng cứ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập sử dụng tại phiên tòa của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo Trương Thạch N:

Lời khai của bị cáo Trương Thạch N tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận:

Hi 15 giờ 15 phút ngày 03/6/2019, tại tổ 2, khu P, phường Đ, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Trương Thạch N bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi hành vi tàng trữ để sử dụng 1,048 gam (Một phẩy không bốn tám gam) ma túy loại Methamphetamine.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự phạm tội do lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Với các chứng cứ, hành vi, của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo và lời luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Về hình phạt chính Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Xét về nhân thân: Bị cáo Trương Thạch N là người có nhân thân xấu.

Tình tiết tăng nặng: Không có Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bản thân bị cáo có bố ruột là ông Trương Công Tư là người có công với cách mạng đã được tặng Huân huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Trương Thạch N là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về đối tượng bán ma túy cho bị cáo .

Đi với người thanh niên tên Hạ bán ma túy cho bị cáo và người thanh niên nhờ bị cáo mua hộ ma túy tên Thông quá trình điều tra cơ quan điều tra xác định anh Hạ, anh Thông không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đi với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHON vỏ màu đen số IMEI 012430008861390 bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy là công cụ phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước .

- Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 10 ống hút màu trắng dài khoảng 20cm đường kính khoảng 0.5cm, 01 sim điện thoại số 0362821967, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại xe Taurus màu đen mang biển kiểm soát 38K4- 5914 không xác định được nguồn gốc xe, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau .

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trương Thạch N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’.

Xử phạt: Trương Thạch N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 03/06/2019.

2. Áp dụng: Điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphon vỏ màu đen số IMEI 012430008861390.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 454/GĐMT ngày 06/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, 10 ống hút màu trắng dài khoảng 20cm đường kính khoảng 0.5cm, 01 sim điện thoại số 0362821967 (Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2019 giữa Công an TP. Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự TP Uông Bí).

3. Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trương Thạch N phải nộp vào ngân sách nhà nước 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Áp dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2019/HSST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về