Bản án 115/2018/HNGĐ-ST ngày 15/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH-THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 115/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 8 năm 2018, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1202/2017/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 266/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 234/2018/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2018 giữa:

Nguyên đơn: Bà Tăng Chí H, sinh năm: 1970.

Địa chỉ: 899 Hương lộ 2, phường A, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc Đ, sinh năm: 1965

Địa chỉ: E10/259/1 ấp 5, xã P, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

( Bà H và ông Đ vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Tăng Chí H trình bày: Bà và ông Nguyễn Quốc Đ chung sống với nhau từ năm 2006, do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống không có gì xảy ra. Tuy nhiên, vào năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chông hay cãi vã nhau, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Bà H đã nhiều lần hàn gắn tình cảm gia đình nhưng cuộc sống hôn nhân gia đình vẫn không hạnh phúc. Hiện vợ chồng đã sống ly thân. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Quốc Đ.

Về con chung: Bà Tăng Chí H và ông Nguyễn Quốc Đ không có con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có.

Bị đơn ông Nguyễn Quốc Đ vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Viện kiểm sát nhân nhân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Tăng Chí H đối với ông Nguyễn Quốc Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Tăng Chí H nộp đơn xin ly hôn đối với ông Nguyễn Quốc Đ. Ông Nguyễn Quốc Đ hiện đang cư trú tại huyện C. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Ông Nguyễn Quốc Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Quốc Đ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bà Tăng Chí H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tòa án đã tiến hành tống Đ hợp lệ các văn bản tố tụng mời ông Nguyễn Quốc Đ đến Tòa án để giải quyết vụ án tranh chấp về ly hôn giữa bà Tăng Chí H và ông Nguyễn Quốc Đ nhưng ông không đến Tòa án để giải quyết. Vì vậy, ông Đ tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Do đó, ông Đ phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 145, quyển số 01/2006, do Ủy ban nhân dân phường 6, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 10/8/2006 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Tăng Chí H và ông Nguyễn Quốc Đ là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông Đ không thể hàn gắn được, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Đ để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của bà H thì giữa bà và ông Đ bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau, ông Đ không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân, như vậy vợ chồng không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặt khác, trong quá trình hòa giải tại Tòa, ông Đ cũng không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập để Tòa án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này chứng tỏ giữa hai người đã không còn tình cảm và đều không có thiện chí để đoàn tụ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Tăng Chí H đối với ông Nguyễn Quốc Đ.

[6] Về con chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có con chung.

[7] Về tài sản chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về nợ chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[9] Về án phí: Bà Tăng Chí H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 203, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ cH: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Tăng Chí H đối với ông Nguyễn Quốc Đ.

Bà Tăng Chí H được ly hôn với ông Nguyễn Quốc Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 145, quyển số 01/2006, do Ủy ban nhân dân phường 6, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 10/8/2006 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có con chung.

3. Về tài sản chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4.Về nợ chung: Bà Tăng Chí H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Bà Tăng Chí H chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp theo biên lai thu số 0030568 ngày 18/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Bà H đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2018/HNGĐ-ST ngày 15/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:115/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về