Bản án 114/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 114/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 109/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2021/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Tưởng Hồng N, sinh ngày 28/8/1997 tại Thái Bình;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 19, phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở: Số nhà 22, ngõ 93, đường L, tổ 37, phường C, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 08/12; Con ông Tưởng Anh D và bà Nguyễn Thị A (đã chết) Chồng là Nguyễn Xuân V, có một con, sinh năm 2014 Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 06/01/2021 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt.

2. Đỗ Tiến H1, sinh ngày 20/7/2000 tại Nam Định Hộ khẩu thường trú: Số nhà 30, phố X, tổ 10, phường T, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Chỗ ở: Số nhà 205, đường T, tổ dân phố số 3 M, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12;

Con ông Đỗ H và bà Nguyễn Thị H Chưa có vợ, con Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 24/8/2015 bị Công an thành phố Nam Định xử phạt cảnh cáo về hành vi gây thương tích, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2050/QĐ-XP ngày 24/8/2015 Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/12/2020 đến ngày 06/01/2021 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt.

3. Ngô Quang H2, sinh ngày 08/8/1995 tại Nam Định Hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã P, huyện M, tỉnh Nam Định.

Chỗ ở: Số nhà 205, đường T, tổ dân phố số 3, M, phường X, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12;

Con ông Ngô Quang H và bà Trần Thị H Có vợ là Trương Thị Kim B, có hai con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Từ năm 2015 đến năm 2017 tham gia nghĩa vụ Công an. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/02/2021 đến nay. Bị cáo có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trương Thị Kim B, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Thôn Cấp Tiến 2, xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (Có mặt).

* Những người chứng kiến:

+ Bà Bùi Thị H, sinh năm 1955. Nơi cư trú: Số nhà 85, Ngõ 70, đường K, tổ 07, phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Số nhà 15, ngõ 26, đường H, tổ 06, phường K, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/12/2020, tại khu vực trước cửa khách sạn White Place, thuộc phường Trần H1 Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện và bắt quả tang Tưởng Hồng N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để bán kiếm lời. Đi cùng với Ngọc là Đỗ Tiến H1. Ngọc đã tự giác lấy từ túi áo bên trái phía trước đang mặc ra giao nộp 01 túi nilon trong suốt có mép cài, bên trong có chứa 30 viên nén màu xám (niêm phong kí hiệu M1); 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa 10 viên nén màu xám (niêm phong ký hiệu M2) và 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng (niêm phong kí hiệu M3), Ngọc khai các túi trên là ma túy tổng hợp, Ngọc nhận của H2 ở thành phố Nam Định mang sang thành phố Thái Bình bán cho khách, xong việc được H2 trả cho Ngọc và H1 mỗi người 500.000 đồng tiền công. Tiến hành kiểm tra người Ngọc thu giữ 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ đã cũ và 1.000.000 đồng. Kiểm tra người H1 thu giữ 01 điện thoại di động Iphone màu xám đã cũ và 5.000.000 đồng. Kiểm tra xe máy Airblade biển kiểm soát 18B1 – 647.31 không phát hiện, thu giữ gì.

Ngày 29/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ngọc và chỗ ở của H1 không phát hiện thu giữ gì. Ngày 24/02/2021, sau khi triệu tập được Ngô Quang H2 lên làm việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của H2 nhưng không phát hiện thu giữ gì.

Tại bản Kết luận giám định số 474/KLGĐMT – PC09 ngày 30/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

- Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 13,4831 gam (Mười ba phẩy bốn nghìn tám trăm ba mươi mốt gam).

- Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 4,5865 gam (Bốn phẩy năm nghìn tám trăm sáu mươi lăm gam).

- Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 1,0183 gam (Một phẩy không nghìn một trăm tám mươi ba gam).

Tưởng Hồng N ban đầu khai nhận toàn bộ số ma túy trên là của Ngô Quang H2 đưa cho để mang sang Thái Bình giao cho khách nhưng sau đó thay đổi lời khai về 30 viên ma túy tổng hợp có khối lượng 13,4831 gam loại MDMA (niêm phong ký hiệu M1) là của riêng Ngọc tàng trữ để bán còn 10 viên ma túy tổng hợp loại MDMA có khối lượng 4,5865 gam (niêm phong ký hiệu M2) và gói ma túy loại Ketamine có khối lượng 1,0183 gam (niêm phong ký hiệu M3) là của H2 đưa để đi giao cho khách.

Đỗ Tiến H1 khai nhận: H2 là người bảo H1 chở Ngọc sang Thái Bình giao đồ tức ma túy cho khách và được hứa trả công 500.000 đồng. H1 biết Ngọc là người giữ ma túy và biết là bản thân chở Ngọc đi giao ma túy nhưng H1 không nhìn thấy H2 đưa ma túy cho Ngọc, không nghe thấy H2 nói với Ngọc đi giao ma túy như thế nào.

Ngô Quang H2 thừa nhận bản thân có nhờ Ngọc đi giao ma túy cho khách hàng, có nhờ H1 chở Ngọc sang bên Thái Bình để giao đồ (tức ma túy) và hứa cho mỗi người 500.000 đồng nhưng H2 chỉ giao cho Ngọc 02 gói ma túy, một gói có 10 viên ma túy tổng hợp (niêm phong ký hiệu M2) và 01 gói ma túy loại Ketamine (niêm phong ký hiệu M3), đối với 30 viên ma túy tổng hợp loại MDMA (niêm phong ký hiệu M1) H2 không thừa nhận và khẳng định không phải của H2.

Tại cáo trạng số 113/CT – VKSTPTB ngày 17/8/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Tưởng Hồng N và Đỗ Tiến H1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Ngô Quang H2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đại diện viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tưởng Hồng N, Đỗ Tiến H1 và Ngô Quang H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tưởng Hồng N từ 10 năm 06 tháng tù đến 11 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2020, phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Tiến H1 từ 08 năm tù đến 08 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2020, phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 5. 000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Quang H2 từ 06 năm 06 tháng tù đến 06 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021, phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 10. 000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong ba phong bì ký hiệu M1, M2, M3.

Trả lại nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án 01 chiếc điện thoại Oppo và số tiền 1.000.000 của bị cáo Tưởng Hồng N; 01 điện thoại Iphone màu xám, 01 điện thoại Nokia màu đen (quản lý khi bị cáo đầu thú) và số tiền 5.000.000 đồng của bị cáo Đỗ Tiến H1; 01 điện thoại Samsung màu xanh đen của bị cáo Ngô Quang H2. Chấp nhận Cơ quan Điều tra đã trả lại chị Trương Thị Kim Bính 01 xe máy Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 18B1 – 64731.

Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo đồng ý với tội danh, hình phạt và các vấn đề khác mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đề nghị. Các bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra và truy tố cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có kH2 nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan Điều tra bị cáo Tưởng Hồng N ban đầu khai toàn bộ số ma túy bị cáo tàng trữ nhằm để bán là của bị cáo Ngô Quang H2 đưa cho nhưng sau đó lại khai nhận gói ma túy tổng hợp 30 viên loại MDMA (niêm phong kí hiệu M1) là của bị cáo tàng trữ để ai hỏi mua thì bán, số ma túy này bị cáo mua của một người không quen biết ở khu vực chợ Quang Trung, phường Quang Trung thành phố Thái Bình với giá 6.000.000 đồng. Bị cáo Ngô Quang H2 chỉ đưa cho bị cáo 01 gói MDMA (niêm phong kí hiệu M2) và 01 gói Ketamine (niêm phong kí hiệu M3) và bảo bị cáo sang giao cho khách và lấy 7.000.000 đồng mang về cho H2, khi H2 nói với Ngọc và giao ma túy cho Ngọc bị cáo H1 không có trong phòng mà đang ở bếp nên không nghe thấy, không nhìn thấy. Lời khai của bị cáo Ngọc phù hợp với lời khai của bị cáo H2 về số ma túy H2 giao cho Ngọc, phù hợp với lời khai của bị cáo H1 về việc H1 không chứng kiến H2 giao ma túy cho Ngọc như thế nào và giao bao nhiêu ma túy, không nghe thấy H2 nói với Ngọc như thế nào. Tại phiên tòa, các bị cáo khai phù hợp với nhau. Lời khai của các bị cáo là chứng cứ buộc tội lẫn nhau và còn được chứng minh bằng lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 23 giờ 00 phút ngày 28/12/2020 tại phường Trần H1 Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (bút lục từ 25 đến 28). Biên bản tạm giữ, niêm phong, kiểm tra đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục từ 29 đến 37). Bản kết luận giám định số 474/KLGĐMT – PC09 ngày 30/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 58, 59) và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở khẳng định:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/12/2020, tại khu vực trước cửa khách sạn White Place, thuộc phường Trần H1 Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình Tưởng Hồng N đang tàng trữ 18,0696 gam ma túy loại MDMA và 1,0183 gam ma túy loại Ketamine để bán, đi cùng với Ngọc là Đỗ Tiến H1. Số ma túy Ngọc tàng trữ để bản có 10 viên nén màu xám là ma túy loại MDMA, khối lượng 4,5865 gam và 01 túi nilon trong suốt bên trong có chất dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,0183 gam có nguồn gốc là của Ngô Quang H2 đưa cho Ngọc mang từ Nam Định sang Thái Bình để giao cho người mua, thu số tiền 7.000.000 đồng tại khu vực khác sạn White Place, phường Trần H1 Đạo, thành phố Thái Bình. Đỗ Tiến H1 là người nhận lời với H2 chở Tưởng Hồng N mang ma túy giao cho khách, cả Ngọc và H1 đều được hứa trả số tiền công 500.000 đồng mỗi người. Tưởng Hồng N còn tàng trữ trái phép 13,4831 gam ma túy loại MDMA của bản thân với mục đích để bán kiếm lời. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, làm lan tràn tệ nạn ma túy trong cộng đồng, gây nhiều tác động xấu đến xã hội. Các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vì hám lời nên vẫn cố ý thực hiện hành vi. Trong vụ án này bị cáo Tưởng Hồng N tàng trữ 03 gói ma túy trong đó 1 gói MDMA có khối lượng 13,4831 gam, 01 gói ma túy loại MDMA có khối lượng 4,5865 gam, và 01 gói Ketamine, khối lượng 1,0183 gam với mục đích để bán, dù số ma túy bị cáo mang trong người có cả số ma túy không phải của bị cáo mà do bị cáo H2 đưa cho nhưng bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với toàn bộ số ma túy có trong người bị cáo. Bị cáo Đỗ Tiến H1 là người nhận lời với bị cáo H2 chở bị cáo Ngọc đi giao ma túy, H1 biết việc chở Ngọc sang Thái Bình để giao ma túy cho H2 nhưng không biết số lượng ma túy phải giao là bao nhiêu, loại ma túy gì, tuy nhiên việc bị cáo biết việc chở Ngọc là để đi giao ma túy, biết Ngọc có ma túy trong người mà vẫn đồng ý chở bị cáo Ngọc nên bị cáo H1 phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số ma túy mà bị cáo Ngọc mang theo. Đối với bị cáo Ngô Quang H2, chỉ thừa nhận việc giao cho Ngọc 01 gói ma túy loại MDMA có khối lượng 4,5865 gam, và 01 gói Ketamine, khối lượng 1,0183 gam với mục đích để bán, bị cáo Ngọc cũng khai thống nhất về nội dung này nên bị cáo H2 không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người đồng phạm là bị cáo Ngọc. Từ đánh giá trên hành vi các bị cáo Tưởng Hồng N, Đỗ Tiến H1 và Ngô Quang H2 đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

g) Qua biên giới;

h) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

k) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

....

q) Tái phạm nguy hiểm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Như vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Tưởng Hồng N và Đỗ Tiến H1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo Ngô Quang H2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H1 đã một lần bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng kể từ khi thi hành xong đã quá 12 tháng nên được xác định là không có tiền sự. Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Cả ba bị cáo đều thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo Đỗ Tiến H1 đã ra đầu thú, bị cáo Ngô Quang H2 từng có thời gian tham gia nghĩa vụ Công an đóng góp công sức cho sự nghiệp giữ gìn an ninh trật tự chung nên bị cáo H1 và bị cáo H2 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

[5] Trong vụ án này bị cáo Ngô Quang H2, Tưởng Hồng N và Đỗ Tiến H1 là đồng phạm đối với việc mua bán 4,5865 gam MDMA và 1,0183 gam Ketamine, trong đó H2 là chủ mưu cầm đầu, ma túy là của H2, H2 là người đưa ma túy bảo Ngọc đi giao cho khách hàng và bảo H1 chở Ngọc cùng đi giao ma túy. Ngọc và H1 là đồng phạm với vai trò giúp sức. Đối với số ma túy của Ngọc tàng trữ nhằm để bán, H2 không biết Ngọc có số ma túy này nên H2 không đồng phạm với Ngọc và không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của Ngọc. H1 là người chở Ngọc đi giao ma túy, H1 biết việc Ngọc có mang ma túy trong người, nhưng không biết là bao nhiêu, khi H1 nhận lời H2 chở Ngọc đi giao ma túy H1 cũng không được H2 nói cho biết đi giao ma túy cho ai, loại gì, số lượng bao nhiêu. Việc H1 nhận lời chở Ngọc đi giao ma túy cho H2 là do H1 tự nguyện không bị ép buộc hay đe đọa, và với mục đích vụ lợi. Việc bị cáo tự đặt mình vào lựa chọn xử sự trái pháp luật mặc hậu quả xảy ra nên hậu quả đến đâu bị cáo phải chịu tới đó, bởi vậy bị cáo H1 là đồng phạm với bị cáo Ngọc trong việc tàng trữ để bán 13,4831 gam ma túy loại MDMA và phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số ma túy bị cáo Ngọc có trong người với vai trò đồng phạm giúp sức.

[6] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi do các bị cáo thực hiện cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo thấy: Mặc dù các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, khai báo thành khẩn, bị cáo H1 và bị cáo H2 còn có thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng bị cáo Ngọc và bị cáo H1 phạm tội rất nghiêm trọng, bị cáo H2 phạm tội nghiêm trọng nên cần quyết định mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình tại phiên tòa mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo cũng như phòng ngừa chung, trong đó xác định mức hình phạt đối với bị cáo Ngọc cao nhất, sau bị cáo Ngọc là bị cáo H1 . Đối với bị cáo Ngô Quang H2 phải chịu trách nhiệm hình sự thấp hơn bị cáo Ngọc và bị cáo H1 .

[7] Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự còn quy định: “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, xét các bị cáo bán ma túy nhằm thu lời, nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: Theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, số ma túy quản lý của bị cáo Tưởng Hồng N còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Trả lại 01 chiếc điện thoại Oppo và số tiền 1.000.000 đồng cho bị cáo Tưởng Hồng N trả lại số tiền 5.000.000 đồng cùng 01 điện thoại Iphone màu xám và 01 điện thoại Nokia màu đen cho bị cáo Đỗ Tiến H1, trả lại 01 điện thoại Samsung màu xanh đen cho bị cáo Ngô Quang H2 do các tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe máy Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 18B1 – 64731, chủ sở hữu là chị Trương Thị Kim Bính, khi chị Bính cho H2 mượn xe, chị không biết H2 dùng vào việc mua bán chất ma túy nên Cơ quan Điều tra đã trả lại xe cho chị, do vậy Tòa án chấp nhận.

[9] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy Ngô Quang H2 khai mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ tại cầu Đò Quan, thành phố Nam Định, thành phố Nam Định, bị cáo Tưởng Hồng N khai mua của một người phụ nữ không biết tên tuổi ở khu vực chợ Cống Trắng, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Tưởng Hồng N, Đỗ Tiến H1, Ngô Quang H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tưởng Hồng N 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2020.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Tiến H1 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2020.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Quang H2 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong ba phong bì ký hiệu M1, M2, M3.

Trả lại 01 chiếc điện thoại Oppo màu đỏ, số tiền 1.000.000 đồng cho bị cáo Tưởng Hồng N. Trả lại 01 điện thoại Iphone màu xám, 01 điện thoại Nokia màu đen và số tiền 5.000.000 đồng cho bị cáo Đỗ Tiến H1. Trả lại 01 điện thoại Samsung màu xanh đen cho bị cáo Ngô Quang H2.

(Các vật chứng trên có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày17/8/2021).

Chấp nhận Cơ quan Điều tra đã trả lại chị Trương Thị Kim Bính 01 xe máy Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 18B1 – 64731.

4. Về án phí: Các bị cáo Tưởng Hồng N, Đỗ Tiến H1, Ngô Quang H2, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Tưởng Hồng N, Đỗ Tiến H1, Ngô Quang H2 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 08/9/2021. Chị Trương Thị Kim Bính có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 08/9/2021.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về