Bản án 114/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 114/2019/HS-ST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 121/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Đức P (tên gọi khác: T), sinh năm 1983 tại Bình Thuận; nơi cư trú thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lương Ngọc T, sinh năm 1958 và bà Trần Thị M, sinh năm 1960; bị cáo có vợ là chị Cao Thiên N, sinh năm 1985 và 01 người con sinh năm 2018;

Tiền án 01: Ngày 24/4/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”; 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”; 01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả 03 tội danh bị cáo phải chấp hành là 17 (mười bảy) năm tù. (Bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 12/2/2018), tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/4/2019 cho đến nay “bị cáo có mặt”.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Minh T, sinh năm 1987; nơi cư trú khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

Ni chứng kiến: Anh Phan Văn Đ, sinh năm 1995; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối tháng 3/2019 Lương Đức P thường xuyên đến thành phố Đ chơi, nên đã thuê phòng số 19 khách sạn “H” thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước ở với bạn gái tên T (không rõ nhân thân, lai lịch). Đến khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 01/4/2019 P ở nhà của mình thuộc thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước thì nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng, nên P điều khiển xe ô tô, biển số 93A-146.39 đến trước cổng quán bar Latin, thuộc khu phố S, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước thì gặp người thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) đang ngồi trước cổng quán bar L, P mở cửa kính xe gọi thì T đi bộ đến gặp, P hỏi mua 6.000.000 đồng ma túy Katamine; 3.000.000 đồng ma túy đá; 2.000.000 đồng ma túy (thuốc lắc) và 1.000.000 đồng ma túy dạng tạp chất thì T đồng ý bán, T đi bộ vào khu đất trống kế bên quán bar L, khoảng 15 phút sau đi ra gặp P đang ngồi trên xe giao cho P gồm 03 bịch nylon bên trong có tổng cộng 21 viên thuốc lắc; 02 bịch nylon bên trong chứa tạp chất; 03 bịch nylon bên trong chứa ma túy đá và 04 bịch nylon bên trong chứa Ketamine, P nhận số ma túy trên và trả cho T số tiền 12.000.000 đồng, giao ma túy cho P xong T đi đâu không rõ, P cất toàn bộ số ma túy mua được vào bên trong cặp da cá nhân rồi để trên ghế bên phải đằng trước xe, điều khiển xe về lại nhà của mình. Đến khoảng 10 giờ ngày 02/4/2019 P điều khiển xe trên đến thành phố Đ gặp anh Lê Minh T để trả xe ô tô, biển số 93A-146.39 thuê trước đó và tiếp tục thuê xe ô tô, biển số 93A-142.15 để đi lại. Khi đổi xe thì P mang theo cặp da bên trong chứa ma túy lên xe, do sợ Công an kiểm tra phát hiện đang cất giấu ma túy nên P lấy 02 bịch nylon bên trong chứa tổng cộng 16 viên thuốc lắc; 02 bịch nylon bên trong chứa tạp chất; 03 bịch nylon bên trong chứa ma túy đá và 04 bịch nylon bên trong chứa Ketamine từ cặp da cá nhân ra cất giấu trong cốp xe cạnh vô lăng xe ô tô biển số 93A-142.15 và chỉ để trong cặp da 01 bịch nylon bên trong chứa 05 viên thuốc lắc.

Đến khoảng 12 giờ, ngày 02/4/2019 P điều khiển xe ô tô, biển số 93A-146.39 đến khách sạn H, vào phòng số 19 đã thuê trước đó thì gặp T đang ở trong phòng, khoảng 15 phút sau T đi ra khỏi phòng nói đi mua đồ thì P lấy một ít ma túy đá bỏ vào bộ dụng cụ, chưa kịp sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an tỉnh Bình Phước kiểm tra phát hiện số ma túy mà P vừa bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy, qua làm việc thì P đã tự nguyện giao nộp toàn bộ số ma túy đang cất giấu trong xe ô tô biển số 93A-142.15 trước đó, Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lương Đức P về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời thu giữ niêm phong tang vật để xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước ra quyết định số 55/QĐ trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước giám định: chất ma túy thu giữ khi bắt quả tang đối với Lương Đức P.

Ngày 05/4/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận như sau:

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,2372 gam, loại Methamphetamine;

- 05 (năm) viên nén tròn xanh (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 1,5016 gam, loại MDMA (N-Methyl-3,4- Methylenedioxyamphetamine);

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định không tìm thấy các chất ma túy thuộc các danh mục của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; mẫu có khối lượng là: 54,0562 gam, loại DimethylSulfone;

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3-1) được niêm phong gửi giám định không tìm thấy các chất ma túy thuộc các danh mục của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; mẫu có khối lượng là: 9,9192 gam, loại DimethylSulfone;

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3-2) được niêm phong gửi giám là ma túy, có khối lượng là: 3,1550 gam, loại Methamphetamine;

- Tinh thể màu trắng mịn (ký hiệu M3-3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 3,0578 gam, loại Ketamine;

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3-4) được niêm phong gửi giám là ma túy, có khối lượng là: 0,9548 gam, loại Ketamine;

- 06 (sáu) viên nén tròn màu xanh (ký hiệu M3-5) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 1,8064 gam, loại MDMA (N-Methyl-3,4- Methylenedioxyamphetamine);

- 10 (mười) viên nén hình vuông, màu xanh (ký hiệu M3-6) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 3,7307 gam, loại Ketamine.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước đã thu giữ:

01 nỏ thủy tinh dài khoảng 16cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá; 01 bịch nylon kéo dính, kích thước khoảng (2x3)cm bên trong chứa 05 viên nén màu xanh nghi là ma túy trong cặp da màu nâu; 01 bịch nylon cuộn tròn, kích thước khoảng (12x20)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy được cất dấu trong vỏ bao thuốc lá hiệu White house; 10 bịch nylon thu giữ được trong 01 túi da màu đen trong cốp xe cạnh vô lăng gồm: 01 bịch nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (3x3)cm bên trong chứa 06 viên nén màu xanh; 01 bịch nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (6,5x4)cm bên trong chứa 10 viên nén màu xanh; 01 bịch nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (8x5)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng; 02 bịch nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (3x3,5)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng; 01 bọc nylon, kích thước khoảng (2x3)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng; 02 bọc nylon, kích thước khoảng (3x2)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng;

02 bịch nylon, kích thước khoảng (2x1,5)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung note 9; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8 màu tím; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White house; 01 cặp da màu nâu; 01 túi da màu đen, kích thước khoảng (10x15)cm; 05 vỏ bịch nylon thu được trong túi da màu đen, kích thước khoảng (5x7)cm; 01 bình thủy tinh được dán băng keo đen, kích thước khoảng (3x7)cm dùng để sử dụng ma túy thu trong túi da màu nâu; 01 quẹt ga màu đen được gắn một đoạn ống nhôm dùng để sử dụng ma túy thu được trong túi da màu nâu; 01 ô tô biển số 93A-142.15 màu trắng hiệu Mazda P thuê để sử dụng.

Ngày 12 tháng 4 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước ra quyết định xử lý vật chứng số 67 trả 01 xe ô tô hiệu Mazda màu trắng biển số 93A-142.15 cho anh Lê Minh T là chủ sở hữu hợp pháp.

Tại Bản cáo trạng số 120/CT-VKS ngày 23/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Lương Đức P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Đức P mức án từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và các dụng cụ được bị cáo dùng vào việc sử dụng và cất giấu ma túy; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Samsung note 9 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8.

Bị cáo P tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 120/CT-VKS ngày 23/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến; phù hợp với kết luận điều tra, với kết luận giám định, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do bản thân là người nghiện ma túy nên khoảng 23 giờ 00 phút ngày 01/4/2019 Lương Đức P đến quán Bar L gặp một người thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua 6.000.000 đồng ma túy loại Katamine; 3.000.000 đồng ma túy đá; 2.000.000 đồng ma túy dạng thuốc lắc; 1.000.000 đồng ma túy dạng tạp chất sau đó P đến gặp anh Lê Văn T để trả chiếc xe ô tô thuê trước đó rồi thuê chiếc xe ô tô 93A-142.15 của anh T làm phương tiện đi lại để cất giấu số ma túy mua được cất giấu trong cốp xe. Đến khoảng 12 giờ ngày 02/4/2019 khi P đến phòng số 9, khách sạn H để gặp T (không rõ nhân thân lai lịch) để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an bắt giữ quả tang thu giữ số ma túy bị cáo đang sử dụng và cất giấu trên xe.

Tại kết luận giám định số 90/2019/GĐ-MT ngày 05/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,2372 gam, loại Methamphetamine;

- 05 (năm) viên nén tròn xanh (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 1,5016 gam, loại MDMA (N-Methyl-3,4- Methylenedioxyamphetamine);

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định không tìm thấy các chất ma túy thuộc các danh mục của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; mẫu có khối lượng là: 54,0562 gam, loại DimethylSulfone;

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3-1) được niêm phong gửi giám định không tìm thấy các chất ma túy thuộc các danh mục của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; mẫu có khối lượng là: 9,9192 gam, loại DimethylSulfone;

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3-2) được niêm phong gửi giám là ma túy, có khối lượng là: 3,1550 gam, loại Methamphetamine;

- Tinh thể màu trắng mịn (ký hiệu M3-3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 3,0578 gam, loại Ketamine;

- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3-4) được niêm phong gửi giám là ma túy, có khối lượng là: 0,9548 gam, loại Ketamine;

- 06 (sáu) viên nén tròn màu xanh (ký hiệu M3-5) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 1,8064 gam, loại MDMA (N-Methyl-3,4- Methylenedioxyamphetamine);

- 10 (mười) viên nén hình vuông, màu xanh (ký hiệu M3-6) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 3,7307 gam, loại Ketamine.

[3] Hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân bị cáo đã bị kết án về tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý và căn cứ vào tổng khối lượng 3,3922 (Ba phẩy ba chín hai hai) gam ma túy loại Methamphetamine; 3,3080 (Ba phẩy ba không tám không) gam ma túy loại MDMA (N-Methyl-3,4- Methyledioxyamphetamine và 7, 7433 (Bảy phẩy bảy bốn ba ba) gam ma túy loại Ketamine bị cáo tàng trữ trái phép để sử dụng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bản thân bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc cất giấu ma túy để sử dụng là hành vi vi phạm pháp luật, khi bị phát hiện sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Song, để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng và sự phát triển lành mạnh của con người. Vì vậy cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi và hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Bị cáo được xem xét tình tiết giảm nhẹ như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đã tự nguyện phối hợp cùng cơ quan Công an giao nộp toàn bộ số ma túy cất giấu, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn theo xác nhận của chính quyền địa phương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[7] Đối với người phụ nữ tên T là bạn gái của bị cáo P. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên tiếp tục điều tra làm rõ để có căn cứ xử lý sau.

Đối với Lê Minh T là người cho bị cáo P thuê xe ô tô biển số 93A - 142.15 nhưng anh Thành không biết P cất giấu ma túy trong xe nên không đặt vấn đề xử lý.

Đối với anh Phan Văn Đ là người quản lý khách sạn H, khi cho bị cáo P thuê phòng anh Điều không biết bị cáo thuê phòng để thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên không đặt vấn đề xử lý.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và các vật dụng được bị cáo dùng vào việc sử dụng, cất giấu ma túy gồm: 04 bì thư mẫu vật hoàn lại sau giám định số 90M; 90M1; 90M2; 90M3 ngày 05/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Phước được niêm phong, đóng dấu giáp lai theo quy định; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White house; 01 cặp da màu nâu; 01 túi da màu đen; 05 vỏ bịch nylon; 01 bình thủy tinh được dán băng keo; 01 quet ga màu đen được gắn một đoạn ống nhôm.

Đối với 01 điện thoại di động Samsung note 9 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8. Đậy là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội do đó cần trả lại cho bị cáo.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lương Đức P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lương Đức P 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2019.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm: 04 bì thư mẫu vật hoàn lại sau giám định số 90M; 90M1; 90M2; 90M3 ngày 05/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Phước được niêm phong, đóng dấu giáp lai theo quy định; 01 vỏ bao thuốc lá; 01 cặp da màu nâu; 01 túi da màu đen; 05 vỏ bịch nylon; 01 bình thủy tinh được dán băng keo; 01 quet ga màu đen được gắn một đoạn ống nhôm.

Trả lại cho bị cáo P 01 điện thoại di động Samsung và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8 (đã cũ, không lên nguồn, không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001719, quyển số 0035, ký hiệu D47/2017 ngày 17/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về