Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 377/2020/TLST – HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXX-ST ngày 05 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Q, sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ 8, Ấp 3, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ 8, Ấp 3, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

(Bà Q có mặt, ông Đ vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, lời khai có tại hồ sơ và phiên tòa, nguyên đơn bà Phạm Thị Q trình bày:

Bà và ông Trần Văn Đ tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2000, do ông Đ theo đạo Thiên Chúa Giáo, thủ tục để kết hôn phức tạp nên ông bà không đăng ký kết hôn. Tới ngày 03/7/2018 ông, bà đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 28/2018. Từ năm 2000 đến năm 2005, vợ chồng ông bà sinh sống tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Từ năm 2005 đến nay, vợ chồng ông bà về sinh sống tại xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông Đ thường xuyên nhậu say về nhà chửi bới, xúc phạm tới bà và cha mẹ bà, có đánh đập bà. Khi ông Đ đánh đập bà thì bà có báo chính quyền địa phương để yêu cầu giải quyết và hòa giải cho vợ chồng. Sau khi địa phương đã hòa giải, ông Đ vẫn không thay đổi, vẫn thường xuyên nhậu say về nhà chửi bới, xúc phạm, đánh đập bà. Từ tháng 10/2020 cho tới nay bà và ông Đ đã sống ly thân nhau, trong thời gian này vợ chồng không hàn gắn, đoàn tụ được, ông Đ cũng thường xuyên xúc phạm tới danh dự và đánh đập bà. Sau khi làm việc tại Tòa án thì ông bà cũng không thể hàn gắn, đoàn tụ được. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không Đ được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Văn Đ.

Về con chung: Bà và ông Đ có 03 con chung tên Trần Ngọc T, sinh ngày 06/6/2000, Trần Ngọc L, sinh ngày 07/6/2002 và Trần Thị Thu V, sinh ngày 22/9/2003. Cháu T và cháu L đã thành niên, có khả năng lao động, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi ly hôn bà yêu cầu giao cháu V cho bà nuôi dưỡng, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Hiện bà đang làm công nhân tại Công ty Nam Giang ở huyện T, tỉnh Đồng Nai, thu nhập bình quân mỗi tháng 10.000.000 đồng nên có đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo lời khai có tại hồ sơ, bị đơn ông Trần Văn Đ trình bày:

Ông thừa nhận về thời gian đăng ký kết hôn, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như bà Phạm Thị Q trình bày là đúng. Trong thời gian vợ chồng chung sống thì có mâu thuẫn nhưng không trầm trọng. Ông đi làm thợ hồ nên thỉnh thoảng (vào cuối tuần hoặc khi có người mời) có nhậu nhưng không say, về nhà khi bà Q chửi bới, xúc phạm ông thì ông mới chửi lại bà Q. Khi vợ chồng tranh cãi, ông bà đều xúc phạm tới nhau. Vào khoảng năm 2005, khi bà Q xúc phạm ông, ông có đánh bà Q 01, 02 cái tát, từ năm 2005 đến nay ông không đánh bà Q. Vào tháng 9/2020, em trai ông nhờ ông ra bắc để làm nhà giúp nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bà Q nghe lời khuyên của người lạ nên mới làm đơn khởi kiện để ly hôn với ông. Theo ông thì vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng, chỉ khi bực tức ông bà mới tranh cãi và xúc phạm lẫn nhau. Từ khi bà Q nộp đơn khởi kiện tới nay, ông đã nhiều lần nói chuyện để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ nhưng bà Q không đồng ý. Nay ông vẫn còn thương yêu bà Q, mâu thuẫn giữa vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, muốn vợ chồng hàn gắn đoàn tụ để cùng nhau chăm lo cho các con nên bà Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì ông không đồng ý.

Về con chung: Ông và bà Q có 03 con chung tên Trần Ngọc T, sinh ngày 06/6/2000, Trần Ngọc L, sinh ngày 07/6/2002 và Trần Thị Thu V, sinh ngày 22/9/2003. Cháu T và cháu L đã thành niên, có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi xem xét nguyện vọng của cháu V thì ông đồng ý giao cháu V cho bà Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu tại phiên tòa sơ thẩm:

- Về thủ tục tố tụng:

+ Về quan hệ pháp luật và tư cách đương sự: Tòa án xác định là đúng và đầy đủ;

+ Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền;

+ Về thời hạn giải quyết vụ án: Tòa án giải quyết trong hạn luật định;

+ Về thu thập chứng cứ: Tòa án thu thập chứng cứ đầu đủ và đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và đương sự: chấp hành và thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Phạm Thị Q được ly hôn với ông Trần Văn Đ; Các con chung Trần Ngọc T, Trần Ngọc L đã thành niên, có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; giao con chung cháu Trần Thị Thu V cho bà Q nuôi dưỡng, tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Án phí: Bà Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Bà Phạm Thị Q khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn Đ, ông Đ có địa chỉ tại: Tổ 8, Ấp 3, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai; Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

- Về quan hệ pháp luật: Bà Phạm Thị Q yêu cầu ly hôn, yêu cầu giao con chung cho bà Q nuôi dưỡng nên xác định quan hệ pháp luật của vụ án là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Ông Trần Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có đơn xin vắng mặt, căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Q và ông Trần Văn Đ có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 28/2018 ngày 03/7/2018 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Quá trình chung sống, ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn nên bà Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân giữa ông, bà tại địa phương nơi cư trú cho thấy: Trong thời gian chung sống tại địa phương, bà Q và ông Đ xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông Đ ăn nhậu về nhà gây gỗ đánh đập bà Q, đuổi bà Q ra khỏi nhà. Bà Q có đơn gửi địa phương hòa giải mâu thuẫn vợ chồng, đại diện địa phương đã hòa giải nhưng chỉ được một thời gian thì lại xảy ra mâu thuẫn. Nay bà Q yêu cầu giải quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết, Tòa án đã nhiều lần tổ chức hòa giải nhưng bà Q vẫn cương quyết yêu cầu được ly hôn với ông Đ do không thể tiếp tục chung sống được nữa. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa bà Q và ông Đ là có thật, kéo dài nhiều năm không thể hàn gắn nên yêu cầu của bà Q về việc ly hôn là có cơ sở chấp nhận, cho bà Q được ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Bà Q và ông Đ có 03 con chung tên Trần Ngọc T, sinh ngày 06/6/2000, Trần Ngọc L, sinh ngày 07/6/2002 và Trần Thị Thu V, sinh ngày 22/9/2003. Cháu T và cháu L đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bà Q yêu cầu giao cháu V cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông Đ cũng đồng ý. Việc thỏa thuận của ông, bà phù hợp với nguyện vọng của cháu V, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của ông bà về việc giao cháu Trần Thị Thu V cho bà Q trực tiếp nuôi dưỡng. Do bà Q không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Phạm Thị Q phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được tính trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0003282 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu. Bà Q đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 235 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 51, 53, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84 và 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Q về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Q được ly hôn với ông Trần Văn Đ.

Về con chung: Bà Q và ông Đ có 03 con chung tên Trần Ngọc T, sinh ngày 06/6/2000, Trần Ngọc L, sinh ngày 07/6/2002 và Trần Thị Thu V, sinh ngày 22/9/2003. Cháu T và cháu L đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Giao cháu Trần Thị Thu V cho bà Phạm Thị Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn. Tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Trần Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở ông Trần Văn Đ thực hiện quyền này.

Khi điều kiện thay đổi và vì quyền lợi của con, đương sự được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, thay đổi cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Phạm Thị Q phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được tính trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0003282 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu. Bà Q đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Phạm Thị Q có mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Trần Văn Đ vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về