Bản án 11/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 11/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2020/TLST-HS, ngày 16 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HS, ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Chẻo Chang M, sinh năm 1972, tại huyện P, tỉnh Lai Châu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện nay: Bản N, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Dao; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chẻo Pao S (đã chết) và bà Chẻo Mý V, sinh năm 1959; bị cáo có chồng là Chẻo Sơn S, sinh năm 1978, hiện nay đã ly hôn; bị cáo có 05 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/6/2020 đến ngày 06/7/2020, hiện đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Chẻo San S, sinh năm 1985, địa chỉ: Bản N, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu, vắng mặt không có lý do.

- Người phiên dịch cho bị cáo Chẻo Chang M: Anh Tẩn A K, sinh năm 2000, địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện P, tỉnh Lai Châu, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong cuối tháng 5 năm 2020, tại khu vực chợ Pa Tần, xã Pa Tần, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, Chẻo Chang M mua được 01 gói Thuốc phiện của một người phụ nữ không rõ tên, tuổi, địa chỉ, với số tiền 7.000.000 đồng, là tiền M bán gà mà có, mục đích M mua Thuốc phiện để sử dụng cho bản thân. Sau khi M mua được Thuốc phiện, người phụ nữ đã bán Thuốc phiên đi đâu, làm gì, M không biết. M đem Thuốc phiện về nhà rồi lấy một ít ra sử dụng, sau đó, M cho gói thuốc phiện vào một chiếc âu nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng và cho vào chiếc túi vải có hoa văn, có dây đeo, loại túi của người dân tộc Dao, để đeo trên người M mà không cho ai biết. Hàng ngày, M đều lấy một ít Thuốc phiện đã mua được ra để sử dụng. Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 27/6/2020, khi M đang ở nhà một mình, M lấy chiếc âu nhựa (có gói Thuốc phiện bên trong) trong túi vải đang đeo trên người ra, định lấy một ít Thuốc phiện để sử dụng thì có Chẻo San S đến hỏi xin M một ít Thuốc phiện để làm thuốc chữa đau bụng. Khi M và S đang nói chuyện thì M thấy tổ công tác Đồn Biên phòng Huổi Luông đi làm nhiệm vụ. Khi tổ công tác vào làm việc, M đã khai nhận việc M cất giấu trong chiếc túi vải đang đeo trên người 01 gói Thuốc phiện để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật của vụ án gồm: 01 gói chất nhựa dẻo màu nâu, được gói ngoài bằng mảnh ni lon màu trắng; 01 mảnh ni lon màu đỏ, trắng có dính chất nhựa dẻo màu nâu; 01 túi vải, có hoa văn bên ngoài, loại túi có dây đeo của người dân tộc Dao; 01 âu nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng. Chẻo Chang M khai số chất nhựa dẻo màu nâu bị tổ công tác thu giữ là Thuốc phiện của M, do M mua về để sử dụng cho bản thân.

Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định, xác định được: Số chất bột màu trắng thu giữ của Chẻo Chang M là ma túy, loại Thuốc phiện, có khối lượng 146,11 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 66/CT-VKS, ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Chẻo Chang M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng. Bị cáo không có tranh luận gì với luận tội của Kiểm sát viên và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Chẻo Chang M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Về hình phạt, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chẻo Chang M từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Thuốc phiện còn lại sau giám định, các mảnh ni lon cũ bị cáo đã dùng để gói Thuốc phiện và vỏ niêm phong cũ của vụ án; 01 chiếc túi vải, có hoa văn bên ngoài, loại túi có dây đeo của người dân tộc Dao; 01 chiếc âu nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội mà bị cáo Chẻo Chang M đã thực hiện:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản mở niêm phong vật chứng; kết luận giám định; lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 27/6/2020, tại nhà ở của Chẻo Chang M, tổ công tác Đồn Biên phòng Huổi Luông đang làm nhiệm vụ đã phát hiện, bắt quả tang Chẻo Chang M đang tàng trữ trong chiếc túi vải đang đeo trên người 01 gói chất nhựa dẻo màu nâu, được gói ngoài bằng mảnh ni lon màu trắng; 01 mảnh ni lon màu đỏ, trắng có dính chất nhựa dẻo màu nâu, được đựng trong 01 âu nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng. Chẻo Chang M khai số chất nhựa dẻo màu nâu M giao nộp cho tổ công tác là Thuốc phiện của M, do M mua về để sử dụng cho bản thân. Qua các kết quả trưng cầu giám định đã xác định được số chất bột màu trắng thu giữ của Chẻo Chang M là ma túy, loại Thuốc phiện, có khối lượng 146,11 gam.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo nhận thức được rõ Thuốc phiện là một loại ma túy, chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân gây mất trật tự xã hội và làm phát sinh tội phạm khác. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai số Thuốc phiện bị thu giữ là bị cáo mua của một người phụ nữ không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để xác minh, điều tra làm rõ hành vi vi phạm pháp luật đối với người đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo trong vụ án này.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo không biết chữ, hiểu biết xã hội và nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời để góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân và đảm bảo công tác phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Số Thuốc phiện thu giữ của bị cáo đã được gửi đi giám định còn lại 142,75 gam là vật cấm lưu hành; các mảnh ni lon bị cáo dùng để gói số Thuốc phiện và vỏ niêm phong cũ; 01 chiếc túi vải, có hoa văn bên ngoài, loại túi có dây đeo của người dân tộc Dao; 01 chiếc âu nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng là những vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố:

1. Bị cáo Chẻo Chang M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Chẻo Chang M: 02 (Hai) năm tù.

Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/6/2020 đến ngày 06/7/2020. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 142,75 gam Thuốc phiện còn lại sau giám định; các mảnh ni lon bị cáo dùng để gói số Thuốc phiện và vỏ niêm phong cũ; 01 chiếc túi vải, có hoa văn bên ngoài, loại túi có dây đeo của người dân tộc Dao ; 01 chiếc âu nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản được lập hồi 08 giờ 00 phút, ngày 19/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về